Nguyễn Lộ Trạch

Rất ít sách vở nói về Nguyễn Lộ Trạch, theo sự nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Thanh Trang, ông Nguyễn Lộ Trạch sinh ngày 15-2-1853 tại Cam Lộ, Quảng Trị, quê quán làng Kế Mơn, huyện Phong Điền, tỉnh Thừa Thiên. Ông là một trong 5 người con trai của Tiến sĩ Nguyễn Thanh Oai, Thượng Thư Bộ Hình và là con rể của Tiến sĩ Trần Tiễn Thành, thượng Thư Bộ Binh dưới triều vua Tự Đức. Ngay từ nhỏ, Nguyễn Lộ Trạch đã nổi tiếng là một thanh niên hiếu học và thông minh xuất chúng. Ông học rộng, biết nhiều, nhưng không chiụ theo đuổi con đường thường tình của thế nhân là cố gắng học hành đỗ đạt để ra làm quan, vinh thân phì gia. Ông là một người yêu nước, nhưng quá lý tưởng. Dưới con mắt của ông, cái học từ chương của các nhà Nho đã quá lỗi thời, về lề lối thi cử của triều đình nhà Nguyễn không đào tạo ra được những nhà trí thức kinh bang tế thế, có khả năng giúp vua, cưú nước thốt khỏi nạn xâm lăng của thực dân Pháp. Ơng đã bỏ ra rất nhiều thì giờ nghiên cứu tình hình tình hình quân sự và chính trị trên thế giới, đặc biệt là các nước Anh, Pháp, Bồ Đào Nha, Đức, Nga, Mỹ, Trung Hoa và Nhật Bản. Nhờ được tiếp cận với hai tủ sách có nhiều sách qúy của thân phụ và của nhạc phụ, Nguyễn Lộ Trạch đã đọc được nhiều sách vở, tài liệu khoa học, chính trị và lịch sử của nhiều quốc gia trên thế giới. Đặc biệt các bản điều trần của Nguyễn Trường Tộ đã thu phục ông và thơi thúc ông hăng say học hỏi và tìm mọi cách giúp vua, cưú nước, theo gương nhà ái quốc Nguyễn Trường Tộ”.

THIÊN HẠ ĐẠI THẾ LUẬN

Sự còn mất của quốc gia là do chính trị – giáo dục, chứ không phải do mạnh – yếu, lớn – nhỏ. Chính trị – giáo dục được sửa sang cất cử thì dầu nhỏ yếu cũng chưa thể mất được.

Tử Sản làm Tể tướng nước Trịnh, Khổng Minh cai trị nước Thục, người ta cũng dễ dàng quên đi cái tình trạng suy yếu của nước ấy. Còn cẩu thả buông tuồng thì dẫu Tần, Tùy có giàu mạnh cũng không thể ỷ lại được, huống chi các triều đại kém hơn.

Kinh Thư nói rằng: “Theo đường trị thì hưng, làm việc loạn thì mất”.

Đó là vết xe chung ngàn đời vậy. Ôi, lớn – nhỏ, mạnh – yếu tuy không phải tại số còn mất, nhưng ngựa kỳ, ngựa ký một ngày đi được ngàn dặm, còn nếu có ngựa tồi thì phải mười cỗ rồi sau mới kịp. Việc thiên hạ không thể ra ngoài cái thế. Cái thế ngày nay khác với cái thế ngày xưa. “Thiên hạ” ngày xưa thì vết chân vua Vũ đã trải khắp cả rồi. Thiên hạ ngày nay thì đúng như điều người xưa nói: “Ở ngoài trời đất và bốn phương thì có thể luận mà không nghị” vậy. Nếu may mà được sống ở “thiên hạ” trước đời Hán, Đường thì mới có thể luận mà không nghị được. Không may mà sống vào buổi Âu – Á tranh cường thì muốn luận mà không nghị được không? Vào thời Xuân Thu, lãnh thổ Trung Quốc phía bắc không đến Lưu Sa, phía tây không đến Ngọc Môn, phía nam không hết được cõi Dương Châu, các bậc quan khanh, đại phu bấy giờ không ai là không trù tính kỹ ở trong lòng cái thế chung của “thiên hạ” để làm cho nước mình được yên trị. Thời nay thì sao lại riêng không làm được như thế?

Ngày nay Tây phương đánh nhau với Trung Quốc, tuy ở cách xa gần nửa vòng địa cầu, thế mà lính Tây (chỉ Tây Ban Nha) kéo ra từ Lữ Tống, thuế má người Anh được cung cấp từ Mạnh Gia, tiền của ở Cát Lâm là kho ngoài của nước Nga. Thế thì giặc mạnh vốn không ở ngoài trùng dương bảy vạn dặm mà chúng ở ngay sát nách vậy. Cái thế trong ngoài hỗn tạp, mà cái hình thôn tính lập thành. Đất Lữ Tống từ đời Minh đến nay, hơn ba trăm năm vẫn thần phục Tây Ban Nha, mà nay lại muốn ngang nhiên tự mình đứng vững, thực là khó lắm thay! Ấn Độ, Miến Điện cùng chung một bệnh như vậy. Xiêm La thì có thể giữ nguyên vẹn được, nhưng không thể hòa thân với các nước láng giềng. Nhật Bản thì mỗi ngày một tiến mau chóng, thế nhưng Nhật Bản mạnh thì mối lo của Trung Hoa lại chẳng phải ở Tây Dương mà chính là ở đây vậy.

Ôi, đất nước nhà Thanh (Trung Hoa) không phải là không mênh mông rộng lớn, nhưng miền Hắc Long bị sáp nhập vào Nga, con đường Miến Điện thông suốt đến đất Điền (Vân Nam); thậm chí Hương Cảng, Áo Môn, Tô, Hạ, Đài Loan đều là con đường phía đông của các nước từ phương Tây đến; một khi có nội biến, các nước đều nhảy vào phân chia xâm chiếm, thì làm sao có thể giữ cho ngày sau tránh khỏi nạn chia năm xẻ bảy được. Ngày trước thiêu rụi ở Viên Minh (thời Hàm Phong), đốt cháy ở Quảng Đông (thời Đồng Trị), và gần đây Phúc Châu (thời Quang Tự) cũng hầu như không giữ được. Thế là nước không phải không lớn, sức nước ấy không phải là không mạnh, nhưng chính trị – giáo dục đã bị buông lơi, trên dưới cẩu thả cầu an nên vậy, Qua Đăng đã bị bó chân không tiến lên được, cũng là đúng thôi (Qua Đăng là người Anh, làm quan triều Thanh; trong việc dẹp loạn Hồng Dương, ông tham dự có công, sau về châu Âu, rồi lại sang phương Đông, dâng kế sách dời đô cho triều đình nhà Thanh, nhưng không được dùng. Xem Hương Cảng tân văn).

Thế nhưng không đến nỗi đã quá lắm đâu. Không phải là trí có thể có, để chế ngự nổi mệnh của các nước phương Tây, mà là thế thì đủ để ràng buộc sức của các nước ấy. Chính trị của Tây phương hoàn toàn có quan hệ với thương mại, mà Trung Quốc lại là nguồn lợi vô tận. Hễ một nước gây hấn thì bốn bên đều bỏ nghiệp – gà ở liền nhau thì kỵ nhau – nên phải cùng nhau dàn xếp. Đó là cái thế kiềm chế lần nhau mà phải vậy thôi. Tự cứu mình không xong thì làm sao cứu nổi người! Cao Ly bị phụ thuộc vào Nga, Lưu Cầu bị thôn tính bởi Nhật, thế mà nhà Thanh vẫn cứ đành giương mắt mà trông. Trước kia có người nước ta bàn nên làm theo kế của Thân Bao Tư, vì họ cũng chưa hiểu rõ được đại thế mà thôi.

Ôi, tình thế nhà Thanh đến nay còn có thể nói được gì nữa! Bên trong thì của cạn sức kiệt; bên ngoài thì bị lấn lướt khóa tay; với bộ xương còm chống giường còn không nổi, mà phải đi chặn giữ những chỗ xung yếu, thế thì họ còn có thể chi viện cho ta được là bao?

Trước kia Trịnh Trang chiếm đất Hứa, bên trong thì mưu tính làm giàu, bên ngoài vẫn giữ danh hiệu cũ. Vì ông ta thực sự có nỗi lo sợ, cho nên phải giả danh để mê hoặc người ta. Cái thói giảo quyệt của người đời nay có kém gì người đời xưa đâu! Sự còn mất của Tây Ban Nha tuy chẳng có liên quan gì ghê gớm tới nước Anh, nước Nhật, thế mà họ vẫn đem quân cứu giúp, không để cho người Nga thôn tính. Việc ấy thực ra có phải vì người Tây Ban Nha mà mưu tính đâu! Từ khi người châu Âu đi tàu sang phương Đông, thèm thuồng đất Chấn Đán, có kẻ đã gắng công lâu dài đến hàng chục năm, hàng trăm năm mà vẫn không có được một tấc đất nào. Nay Pháp chỉ với cái sức suy bại còn lại của phương Tây, bỗng nhiên có được kho tàng dồi dào, thì một ngày kia chúng sẽ vét thuế ở Long Biên để giành giật đất Điền, dấy binh ở Chân Lạp để quấy rối Tân Gia Ba, rồi dồn chứa tất cả sức lực trong nước để giành lại đất cũ với Phổ. Đó cũng là mối lo thầm kín của Anh, Phổ vậy. Nếu có cơ hội có thể lợi dụng được thì họ sẽ mượn cớ để đánh Pháp, thử hỏi Pháp có thể cao gối ngủ yên được không? Bên ngoài thì họ giả danh “dấy nước đã kiệt, nói dòng đã tuyệt”, bên trong thì lại thi hành mưu kế thu vén làm giàu, kể cũng giảo quyệt lắm thay!

Thầy thuốc chữa bệnh ắt phải biết nguyên nhân của bệnh rồi trị cái nguyên nhân ấy thì bệnh mới khỏi. Nay mưu tính sự sống còn há không có cái nguyên nhân làm căn cứ sao? Vì ta yếu hèn khuất phục mà chúng thương ư? Vì ta giàu mạnh mà chúng chẳng dám gây sự ư? Đều không phải như vậy! Thế thì vốn đã có nguyên nhân sẵn rồi. Người xưa trong lúc rối ren thường vẫn cứ đinh ninh là việc nước sẽ ổn định. Tại sao họ lại viển vông như vậy? Vì nếu không nghĩ như thế, thì sẽ không có gì để cố kết lòng người, sẽ tan mọi hy vọng và làm mất hết tài trí của thiên hạ. Vả chăng trí mưu của ngoại bang không phải là khó dò xét lắm đâu. Cái mà chúng mưu đồ thì lâu dài, cái mà chúng tranh đoạt là lợi lớn. Những việc chúng làm hiện nay đều đã được trù tính ngay từ lúc mới mang tàu đến nước Nam, chứ không phải là vì vui mừng trước một lời nói mà chúng ký hòa khoản; cũng không phải vì giận dữ trước một sự việc mà dấy lên binh đao. Nếu ta cứ co ro, sợ sệt thì chỉ chuốc lấy sự khinh miệt mà thôi! Nay ta hãy thực tâm bỏ đi cái hư danh mà mình không có, xác định phạm vi thực đang có của ta, khiến cho có định chế rõ ràng, kẻ khác không được xen vào làm rối quyền hành. Rồi trên dưới một lòng, sớm tối bàn định. Bên trong là nỗi khổ của dân và tệ lậu quan lại, bên ngoài là tình hình Tây Dương và mối lợi tàu buôn, tất cả đều phải kịp thời chỉnh đốn – xa thì xem gương Câu Tiễn, gần thì xem gương Nhật, Phổ. Nếu làm được như vậy thì hiện nay tuy ta chỉ có thể xác định bờ cõi để giữ cho yên, nhưng biết đâu một ngày kia lại không có thể tung hoành làm nên nghiệp lớn? Nếu không làm theo kế ấy mà cứ cúi ngẩng theo lệnh người ta thì chắc chắn cũng lại đi theo vết xe đổ của Ấn Độ, Miến Điện mà thôi!

Có thuyết nỏi rằng: hàng ngày người làm ruộng bón phân cho lúa sắp héo khô, thì mặc dầu họ chẳng mong tất sẽ được mùa, nhưng chính là họ làm cho đất màu mỡ để năm sau mùa màng nhờ đó mà tốt hơn. Vậy thì việc vun xới, chăm bón để bồi bổ nguyên khí cho đất đai hẳn không phải là tính toán sai lầm vậy. Ôi, người quân tử chỉ làm cái việc cần phải làm, còn cái thế và cái số tạm gác lại không cần xét đến cũng được. Mạnh Tử khi ở nước Tề thì nói: “Với nước Tề việc thi hành đạo vương dễ như trở bàn tay”, còn ở nước Đằng thì nói: “Nếu có bậc vương dấy lên thì ắt phải đến đó mà học hỏi”. Vậy là đâu có từng vì cái thế yếu kém mà trễ nãi việc xửa trị đâu? Vũ Hầu đời Hán, Việt Thạch đời Tấn, Văn Tín Quốc đời Tống, Sử Thượng Thư đời Minh… mấy vị quân tử ấy, không phải là không biết cái thế ra sao, nhưng các vị ấy vẫn đều hết sức làm cái việc cần phải làm, còn thành hay bại, nhanh hay chậm thì không cần tính đến.

Vả chăng mối nguy ngày nay há phải là mới bắt đầu từ ngày nay đâu? Cái mối nguy ngày nay chẳng phải mới có từ ngày đánh nhau ở cửa biển Cần Giờ, bán đảo Sơn Trà mà ngay từ lúc Vạn Tượng, Cao Miên xin triều cống. Có ngoại bang mạnh thì lại đổ cho ngoại bang, giả sử không có ngoại bang thì liệu ta có thể yên ổn vô sự được không? Ôi, chế độ quận huyện vốn sinh ra từ chế độ phong tước kiến địa, phương thức chia ruộng ra bờ “thiên” bờ “mạch” lại bắt nguồn từ phương thức chia theo kiểu “tỉnh điền”. Thối nát – thần kỳ, đó là cái lẽ tuần hoàn của bản thân vạn vật. Dựa vào giấy tờ, lương bổng bạc bẽo, cho nên quân đội yếu kém. Cần phải cố gắng chấn chỉnh lại! Quen thói tô vẽ bề ngoài, bày đặt lắm thứ, cho nên quan lại nhũng lạm. Cần phải cố gắng giảm bớt đi! Vì giấy tờ bề bộn nên tục lệ thời thượng cổ trở lại; vì công việc trễ nải nên học thuyết Thân, Hàn dấy lên. Đó là nguyên nhân tất yếu của sự biến chuyển tình thế, mà đời nọ nối tiếp thay thế đời kia vậy.

Thời thế biến chuyển đến thế này là cùng cực rồi. Nhưng cơ trời bĩ và thái thường nương tựa nhau và ngầm chứa nhau. Người quân tử không dám vì thiên hạ yên trị mà xao lãng việc nơm nớp giữ gìn, cũng chẳng nỡ vì thiên hạ loạn lạc mà sợ sệt lẩn tránh. Có trách nhiệm với đời một ngày thì cũng có việc làm của một ngày. Người quân tử rất ghét những kẻ lấy cớ thời vận để thoái thác trách nhiệm vậy.

Tuy thế, kế sách làm giảu của Thái Tây cũng vụng về lắm. Mặc Lợi mở mang lại giúp Hoa Kỳ dựng nước; Đông Bột khai thông mà Nhật Bản hùng cường; nhờ khai khẩn núi Đại Lợi mà Mạch Tây hưng thịnh; nhờ khai thác núi Tân Lang mà Xiên La giàu có. Gần đây họ lại dốc sức vào vùng vịnh phía nam nước ta, tất sẽ tạo nên thế đối địch sau này. Phàm những kẻ tính toán thu vén làm giàu cho mình thì đều là làm hộ cho thiên hạ cái việc khai sáng mở mang, chẳng khác gì chim tiêu liêu hàng ngày lo xây tổ, người ta hàng ngày dạy dỗ con cái. Há là trời phú cho họ cái tính ấy chăng, sao lại làm không biết mệt như thế? Ôi, có điện mà không biết dùng, có khoáng sản mà không biết lấy, chỉ cậy vào sức chai cứng của chân tay mà không biết đến sự tiện lợi của tàu xe, máy hơi nước, quả là ngu nhất thiên hạ vậy! Nhưng biết đâu trời lại chẳng thương cho cái ngu đó mà sai kẻ thay mặt mình dạy dỗ cho chăng? Kết tổ xong thì chim tu hú vụng về chiếm làm nhà, dạy dỗ con cái nên người rồi thì họ khác đến cưới đi. Đó là cái lý tất nhiên vậy. Xem cái lý, xét cái thế, kịp thời sửa sang chính trị – giáo dục để không phụ lòng mong mỏi của dân. Đó là điều hy vọng ở những bậc quân tử tương lai trong nước.

KHẢO DỊ

Dưới nhan đề có một đoạn văn giới thiệu bài luận này của người sao chép Kỳ Am Nguyễn Lộ Trạch di văn như sau:

“Những bài trong Quỳ ưu lục của ông đều được viết ra từ năm Giáp Thân (1884) niên hiệu Kiến Phúc trở về trước. Lúc ấy việc nước còn có thể làm được, cho nên những kế hoạch viết ra lúc trước hãy còn có hy vọng nhiều vào người cầm quyền, lại có ý khích lệ nữa. Bài này viết ra sau khi cuộc bảo hộ đã xong (vào khoảng đời Đồng Khánh đến đời Thành Thái), trong đó bàn về xu thế trào lưu Âu Tây, toàn cục Á Đông cùng với những việc sai lầm đã qua của nước ta, rõ ràng minh bạch, nhãn quan như đuốc, xác kiến không sai. Đoạn sau chuyên bàn về đại thế, không trách những chuyện đã qua nữa mà hoàn toàn trông mong vào người sau, lời nói càng đau đớn mà lòng càng thêm khổ não. Đến ngày nay ta lại càng phục tiên kiến của ông là sáng suốt.

Nguồn bài viết:

  • Wikipedia
  • Thiên hạ đại thế luận
  • Internet