Mạc Thái Tổ (chữ Hán: 莫太祖 22 tháng 11, 1483 – 11 tháng 9, 1541) tên thật là Mạc Đăng Dung (莫登庸), là nhà chính trị, hoàng đế sáng lập ra triều đại Nhà Mạc trong lịch sử Việt Nam. Ông đóng vai trò quan trọng trong các sự kiện đánh dẹp các thế lực cát cứ, chống đối triều đình, loại bỏ ảnh hưởng của những người ủng hộ Nhà Lê, thành lập Nhà Mạc và cứng rắn chống lại với những thế lực phò vua Lê ở Thanh Hóa.
Mạc Đăng Dung bước vào đường quan lộ sau khi thi đậu Võ trạng nguyên trong cuộc thi tuyển võ sĩ tại Giảng Võ đường ở Thăng Long dưới triều Lê Uy Mục. Trong khoảng 20 năm, từ một võ quan cấp thấp không có thế lực dưới thời Lê Uy Mục, nhờ tài thao lược và mưu trí, Đăng Dung đã vươn tới tột bậc quyền lực vào năm 1527 khi được thăng tới chức Thái sư tước An Hưng vương thời Lê Cung Hoàng. Và tính trong khoảng thời gian chưa đầy 30 năm, từ một thường dân áo vải không có thế lực bảo trợ đúng nghĩa (gần giống như trường hợp Đinh Bộ Lĩnh, Trịnh Kiểm, hay Nguyễn Huệ) rồi trúng tuyển vào quân Túc vệ của triều đình ở độ tuổi chừng 20, Đăng Dung đã đạt tới mức quyền lực cao nhất dưới thời quân chủ của Việt Nam. Dưới thời Lê sơ, trong khoảng 20 năm, ông đã lần lượt được phong tước bá (Vũ Xuyên bá), hầu (Vũ Xuyên hầu), công (Minh quận công rồi Nhân quốc công), vương (An Hưng vương). Với vai trò là người khai lập ra triều Mạc, ông lần lượt làm vua, thái thượng hoàng, cũng như quyền nhiếp chính khi con trai cả kế ngôi của ông là Mạc Thái Tông (Mạc Đăng Doanh) đột ngột qua đời. Không có thế lực chống lưng hỗ trợ, từ một người đậu Võ trạng nguyên ở độ tuổi 20 rồi được sung quân Túc vệ vác lọng theo vua thời gian đầu, Đăng Dung đã được giao chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ (trật chánh tam phẩm) vào năm 1508 ở tuổi 25. Điều này cho thấy nhiều về năng lực của ông, chứ không phải chỉ tiến thân nhờ sức mạnh cơ bắp kiểu võ biền mà đạt được. Xuất thân hàn vi, lập thân bằng đường binh nghiệp, Đăng Dung là người có công đầu trong việc tạo lập lại thế ổn định và đà phát triển của xã hội cũng như chính trường Đại Việt sau hơn 20 năm hỗn loạn đầu thế kỷ XVI.
Những sử thần của nhà Lê trung hưng (cũng là những người đã biên soạn bộ Đại Việt sử ký toàn thư bản bổ sung ở thế kỷ 17) luôn mang cái nhìn thâm thù với triều Mạc (đặc biệt là với người đã sáng lập ra triều đại này), trong đó học giả danh tiếng Lê Quý Đôn cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên họ cũng không "nỡ lòng" loại bỏ một chi tiết lịch sử quan trọng khi Mạc Đăng Dung phế ngôi nhà Lê sơ là "bấy giờ thần dân trong nước đều theo Mạc Đăng Dung, đến đón vào kinh sư" (Đại Việt sử ký toàn thư, bản bổ sung do nhà Lê–Trịnh sai biên soạn ở thế kỷ 17) hay "lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô" (Đại Việt thông sử của Lê Quý Đôn). Điều này cho thấy Mạc Đăng Dung không chỉ có tài thao lược mà sức thu phục nhân tâm của ông cũng lớn hơn nhiều nếu so với phản ứng của dân chúng khi Hồ Quý Ly giành ngôi nhà Trần. Đại bộ phận dân chúng Bắc Hà, trong đó đặc biệt là dân thành Thăng Long rõ ràng là có phản ứng hoàn toàn tích cực với cuộc đổi ngôi do ông thực hiện nên mới có cuộc tiếp đón trọng thị như ngòi bút của các sử thần nhà Lê-Trịnh đã thuật lại. Điều này khác hẳn ý nghĩa cụm từ "cướp ngôi" thường được dùng về sau bởi những lực lượng chống Mạc. Những người ủng hộ họ Lê cầm quyền có thể phản đối cuộc đổi ngôi này nhưng đại bộ phận dân chúng Bắc Hà (dân kinh lộ hay dân trung châu theo cách gọi của người vùng Thanh–Nghệ) có thể đã quá chán nản với tình cảnh chính trị và xã hội Đại Việt trong gần 20 năm cuối thời Lê sơ. Bởi vậy đại bộ phận dân chúng Bắc Hà không có sự chống đối đáng kể nào với cuộc thế ngôi của Đăng Dung dù trong lòng có thể vẫn tiếc nuối một triều đại nhiều công tích do Lê Thái Tổ và Lê Thánh Tông góp công dựng nên. Tuy nhiên việc phế bỏ nhà Hậu Lê, triều đại đã để lại những dấu ấn sâu đậm đối với lịch sử dân tộc, việc tự trói mình khi gặp sứ giả nhà Minh và xin cắt đất cầu hòa, nhận chức An Nam đô thống ti sứ do nhà Minh ban cho (tức là tự hạ thấp chủ quyền dân tộc, coi Đại Việt như một tỉnh của Trung Quốc), đã khiến ông trở thành tâm điểm chỉ trích của các sử gia, tri thức Việt Nam qua các thời kỳ lịch sử.
Quan điểm phê phán Mạc Đăng Dung ở Việt Nam đã có sự thay đổi qua những giai đoạn lịch sử khác nhau. Kể từ đầu thời Nhà Nguyễn cho đến thập kỷ đầu thế kỷ XXI, những nhà nghiên cứu lịch sử và văn hóa như Nguyễn Văn Siêu, Lê Văn Hòe, Phạm Văn Sơn, Trần Quốc Vượng, Trần Khuê, Trần Lâm Biền, Vũ Khiêu, Văn Tạo, Đinh Khắc Thuân, Phan Đăng Nhật, Trần Thị Vinh là những người đi đầu trong việc đánh giá lại vai trò lịch sử của Mạc Đăng Dung theo hướng cởi mở khách quan hơn thời Lê-Trịnh... Qua những kết quả nghiên cứu liên ngành trong các lĩnh vực như chính trị, kinh tế (như các hoạt động sản xuất, thương mại), văn hóa - tư tưởng, văn học - nghệ thuật, giáo dục, tôn giáo - tín ngưỡng... đã cho thấy sự ra đời của Nhà Mạc và những động thái chính trị - quân sự của Mạc Thái Tổ (Mạc Đăng Dung) là phù hợp với bối cảnh khách quan lúc bấy giờ, khi nhà Hậu Lê đã suy sụp không còn trị nước được nữa.
Thân thế và giáo dục
Sử liệu Đại Việt thuộc địa phận nhà Mạc cai quản ở thế kỷ 16 do các sử thần triều Mạc biên soạn hầu như thất lạc (có thể trong giai đoạn chiến tranh ác liệt Lê-Mạc) và không được lưu truyền về sau. Cũng có thể do thời gian cầm quyền ngắn mới có 65 năm ở Thăng Long và lại đang bận tâm nhiều đến việc chiến sự đương thời nên nhà Mạc chưa chú trọng viết sử của triều đại mình. Khi nhà Lê-Trịnh đánh bại nhà Mạc vào năm 1592, thì sử thần nhà Lê Trung Hưng cũng là những người biên soạn hầu hết những dữ liệu lịch sử về thời Mạc như chúng ta biết ngày nay. Các sách chính sử Việt Nam do những sử thần của nhà Lê-Trịnh (bao gồm cả Phạm Công Trứ và Lê Quý Đôn) biên soạn trong các thế kỷ 17 và thế kỷ 18 (như Đại Việt sử ký toàn thư bản bổ sung, Đại Việt thông sử) không ghi chép thực sự đầy đủ về sự nghiệp của Mạc Đăng Dung. Điều này cũng gần tương tự như trường hợp sử liệu về Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Mạc Đăng Dung sinh giờ Ngọ, ngày 23 tháng 11 năm Quý Mão (tức ngày 22 tháng 12 năm 1483) thời vua Lê Thánh Tông, người làng Cổ Trai, huyện Nghi Dương (nay là huyện Kiến Thụy, thành phố Hải Phòng). Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Đại Việt thông sử: Cụ tổ 7 đời của Mạc Đăng Dung là Mạc Đĩnh Chi, Lưỡng quốc Trạng nguyên thời Trần, quê ở huyện Chí Linh, Hải Dương, làm quan đến chức Nhập nội Hành khiển Thượng thư môn hạ tả Bộc xạ kiêm Trung thư lệnh, Tri quân dân trọng sự, làm quan thanh liêm, tiếng tăm lừng lẫy cả nước. Mạc Đĩnh Chi sinh ra Mạc Dao làm quan Tư hình đại phu, Mạc Dao sinh bốn con là Mạc Địch, Mạc Thoan, Mạc Thúy, Mạc Viễn, người nào cũng có tài năng, sức lực. Nhà Minh xâm lược Đại Ngu, họ Mạc tất cả đều theo nhà Minh, đem quân hàng giặc, dâng địa đồ cho giặc, lại dẫn đường cho giặc, bắt được Hồ Hán Thương ở núi Cao Vọng. Nhà Minh đều cho làm quan, phong tước.
Sau đó Mạc Thúy gặp quân Minh dâng sớ xin nhập Đại Ngu thành quận huyện của Trung Quốc. Mạc Thúy sinh ra Mạc Tung, dời đến huyện Thanh Hà. Lúc ấy Lê Lợi đã đánh thắng quân Minh, nghiêm trị ngụy quan (những quan lại người Việt cộng tác với quân Minh). Mạc Tung không dám ra làm quan, ẩn náu nơi thôn xóm. Mạc Tung sinh ra Mạc Bình, dời đến Nghi Dương, Mạc Bình sinh ra Mạc Hịch, ba đời này đều không hiển đạt. Mạc Hịch lấy người con gái họ Đặng trong làng, sinh ra con trưởng là Mạc Đăng Dung, hai con thứ tên Đốc và Quyết.
Mạc Đăng Dung thời trẻ nhà nghèo, làm nghề đánh cá, lớn lên dưới thời vua Lê Uy Mục có tuyển võ sĩ, Đăng Dung dự thi môn đánh vật, trúng Đô lực sĩ xuất thân, được sung vào đội túc vệ, giữ việc cầm dù theo xe vua.
Theo sách của Viện Sử học Việt Nam, họ đã dùng sách Công Dư tiệp ký, cuốn sách mang tính truyền kỳ không phải chính sử, để kết luận rằng Mạc Đăng Dung là cháu 7 đời của Mạc Đĩnh Chi mà Mạc Đĩnh Chi lại là cháu 5 đời của Trạng nguyên Mạc Hiển Tích thời Lý Nhân Tông (1086), tức là Mạc Đăng Dung là cháu 11 đời của Mạc Hiển Tích. Gốc gác họ Mạc từ Cơ Chất Khiết - hậu huệ nhà Chu bên Trung Quốc. Sau khi nhà Chu mất, Cơ Chất Khiết làm quan cho nhà Hán, được ban họ Mạc và phong ở Trịnh ấp. Sau này con cháu di cư xuống phía nam rồi tới Đại Việt.
Một tích khác, theo sử gia Việt Nam Trần Quốc Vượng, người làm trong Viện Sử học Việt Nam, theo sách đã dẫn, Mạc Đăng Dung là dòng dõi người tộc Đãn ở ven biển từ Phúc Kiến (Trung Quốc) trở xuống, đã Việt hóa ở phương Nam, phỏng đoán rằng gia phả thực của họ Mạc còn chôn trong mộ và họ Mạc là người Đãn man. Mạc Đăng Dung nhận mình là con cháu Mạc Đĩnh Chi chỉ là "thấy người sang bắt quàng làm họ", những nghiên cứu của giáo sư Vượng còn nhiều ý kiến tranh cãi.
Sự nghiệp
Triều vua Lê Uy Mục
Năm 1504 vua triều Lê sơ Lê Hiến Tông chết, nhà vua được sử gia Vũ Quỳnh cho là bậc vua hiền, giữ vững cơ đồ, chẳng may chết sớm. Người con thứ lên thay, tức vua Lê Túc Tông cũng mất một năm sau đó, thọ 17 tuổi. Túc Tông mất, người anh lên thay, tức vua Lê Uy Mục. Vua Uy Mục nghiện rượu, hoang dâm, thích ra oai, để cho họ ngoại hoành hành, người bấy giờ gọi là Quỷ vương, cơ đồ Nhà Lê đi xuống từ đây.
Mạc Đăng Dung là người có sức khỏe. Thời trẻ, ông nhà nghèo làm nghề đánh cá. Thời Lê Uy Mục tổ chức thi tuyển dũng sĩ, Mạc Đăng Dung đã trúng Đô lực sĩ xuất thân (còn được gọi là Võ trạng nguyên), được sung vào đội quân Túc vệ cầm dù theo vua. Trong hàng ngũ võ quan Nhà Lê, theo sử gia Lê Quý Đôn, Mạc Đăng Dung tỏ ra là người thật thà ngay thẳng. Năm 1508 ở tuổi 25, Mạc Đăng Dung được giao chức Đô Chỉ huy sứ vệ Thiên Vũ (trật chánh tam phẩm).
Thời bấy giờ, vua Uy Mục để cho họ ngoại lộng hành, lòng dân căm phẫn; lại nghi kị các quan, các tôn thất, nhiều người tự lo cho thân mình, muốn nổi loạn. Năm 1509, vua xua đuổi người tôn thất và công thần về xứ Thanh Hóa, viên tướng Nguyễn Văn Lang đem quân ba phủ khởi binh ở Tây Đô, giữ cửa biển Thần Phù. Người cháu của Lê Thánh Tông, Giản Tu công Lê Oanh bị bắt, trốn ra, chạy đến Thanh Hóa được Nguyễn Văn Lang phò lập làm minh chủ. Quân của Lê Oanh từ Thanh Hóa tiến ra Thăng Long, vua Uy Mục bị thua, uống thuốc độc tự tử, Lê Oanh lên ngôi tức vua Lê Tương Dực. Sử sách không chép gì về Mạc Đăng Dung trong thời gian này
Triều vua Lê Tương Dực
Vua Tương Dực lên ngôi, ban hành giáo hóa, thận trọng hình phạt, song chơi bời vô độ, xây dựng liên miên, dân nghèo thất nghiệp, trộm cướp nổi lên, nhiều nơi dấy binh làm loạn, dẫn tới sự suy vong của Nhà Lê sơ.
Năm 1511 Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên bá, bây giờ các thuật sĩ, hào kiệt nói với vua rằng phương đông có sắc khí thiên tử. Vua Lê Tương Dực sai đại thần Nguyễn Văn Lang đem thuật sĩ ra Đồ Sơn, Hải Phòng, tức quê của Mạc Đăng Dung trấn yểm. Đăng Dung đi trong chuyến đó mà không ai biết.
Thời gian này có năm gặp hạn hán, đói to, các cuộc nổi dậy chống lại triều đình như của Trần Tuân, Nguyễn Nghiễm... liên tiếp xảy ra, triều đình phải vất vả đánh dẹp. Năm 1516, Trần Cảo khởi nghĩa ở Quỳnh Lâm, đem quân chiếm kinh thành. Đích thân vua Tương Dực cầm quân, đánh bại Trần Cảo, Cảo phải chạy về Ngọc Sơn. Viên tướng Trịnh Duy Sản trước kia có mâu thuẫn với nhà vua, nay dùng mưu giết vua Lê Tương Dực ở cửa nhà Thái Học. Cùng năm đó, Trịnh Duy Sản cùng các huân cựu đại thần lập người con mới 14 tuổi của Cẩm Giang vương Lê Sùng tên Lê Y lên ngôi tức vua Lê Chiêu Tông.
Triều vua Lê Chiêu Tông
Theo lời bàn của sử thần, thời vua Lê Chiêu Tông, bên ngoài giặc giã nổi lên, bên trong quyền thần chém giết lẫn nhau, kinh sư đẫm máu. Năm 1517 người hai thế lực đương thời họ Thủy Chú (Trịnh) và họ Tống Sơn (Nguyễn) là Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy đánh lẫn nhau, Trịnh Tuy phải chạy về Lôi Dương, Thanh Hóa. Một thế lực khác là Trần Chân lại tìm cách đánh Nguyễn Hoằng Dụ, khiến Dụ phải tìm cách về Thanh Hóa, từ nay chỉ có Trần Chân làm phụ chính trong triều. Mạc Đăng Dung lúc ấy trấn thủ Sơn Nam, Trần Chân viết thư khuyên Đăng Dung chặn lại, Đăng Dung không nỡ. Nguyễn Hoằng Dụ viết tờ thư và bài thơ gửi cho Đăng Dung, Đăng Dung án binh bất động, Hoằng Dụ chạy thoát về Tống Sơn, Thanh Hóa.
Thời ấy có Cù Khắc Xương, Trần Khắc Xương mượn đạo Thiên vũ, Thiên bồng mê hoặc dân, Mạc Đăng Dung dâng sớ xin trị tội, lại hạch một số viên quan mê tín tà thuyết. Nhà vua nghe theo, giết những người ấy. Thiệu quốc công Lê Quảng Độ hàng phe nổi dậy Trần Cảo, Mạc Đăng Dung cũng dâng sớ khuyên nhà vua đem chém vì tội bất trung, vua cũng nghe theo. Từ đấy, nhà vua tin Mạc Đăng Dung là người trung trực, càng thêm ân sủng.
Năm 1518, Mạc Đăng Dung được thăng làm Vũ Xuyên hầu, ra trấn thủ Hải Dương. Tại đây Đăng Dung thu thập hương binh, chỉnh đốn quân ngũ, quân số ngày càng đông.
Sau khi đánh đuổi được hai thế lực Nguyễn Hoằng Dụ và Trịnh Tuy, quyền thế của Trần Chân ngày càng lớn. Mạc Đăng Dung cũng phải sợ, liền dạm hỏi con gái Trần Chân cho con trai mình là Mạc Đăng Doanh. Bấy giờ, các đại thần bàn mưu với nhà vua, dụ Trần Chân vào cung, sai lực sĩ bắt, Trần Chân chạy đến cổng thành bị người giữ cửa bắt chém đi. Các thủ hạ của Trần Chân là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc mang quân đánh kinh đô báo thù. Vua Chiêu Tông không chống nổi, đang đêm phải bỏ chạy sang dinh Bồ Đề ở Gia Lâm để tránh.
Giúp vua Chiêu Tông đánh dẹp các thế lực chống triều đình
Trịnh Tuy lúc này cầm 1 vạn binh, đóng ở xứ Sơn Nam, nghe tin vua chạy ra ngoài, quân lính tan vỡ cả. Quân của Nguyễn Kính, Nguyễn Áng tha hồ cướp bóc, kinh sư thành chỗ săn bắn, đánh cá. Chiêu Tông gọi Nguyễn Hoằng Dụ lúc này đang ở Thanh Hóa ra đánh Nguyễn Kính, nhưng Hoằng Dụ lưỡng lự không đi. Lê Chiêu Tông bèn triệu Mạc Đăng Dung đang trấn thủ Hải Dương về cứu, rồi sai người đi dụ Nguyễn Kính, nhưng Nguyễn Kính lại càng hoành hành, đóng quân không rút.
Mạc Đăng Dung từ Hải Dương về yết kiến vua, đóng thủy quân ở sông Nhị Hà, cho rằng chỗ nhà vua ở là Súc Ý đường hơi, xin vua chuyển về dinh Bồ Đề để tiện theo hầu. Lại sai đi dụ hàng thủ hạ của Trần Chân, những người này nói phải giết những kẻ gièm pha trước kia, rồi sẽ hàng. Vua Chiêu Tông làm theo, nhưng họ đều không hàng, mà càng rông rỡ hoàng hoành, đóng quân không rút. Đăng Dung lại xin nhà vua chuyển nơi ở, hai viên quan can ngăn, Đăng Dung đều cho người giết chết.
Theo sách Đại Việt thông sử, lúc này Đăng Dung thấy triều đình rối loạn, nên nảy ý đồ khác. Ông mượn thế của quân địch để giết hết đại thần, chặt vây cánh của vua Lê Chiêu Tông. Bèn lập ra kế đi dụ quân địch, rồi mạo lời họ, ép triều đình giết chết Đoan quận công Ngô Bính, Thọ quận công Trịnh Hựu và Chử Khải.
Lúc này, Trịnh Tuy và các tướng ở Sơn Tây mưu lập người con của Tĩnh Tu công Lộc lên làm vua, sau nửa năm phế, lại lập Lê Do lên. Vua Chiêu Tông lại mời Nguyễn Hoằng Dụ ra đánh Trịnh Tuy, Nguyễn Áng, Nguyễn Kính ở Sơn Tây, Hoằng Dụ đem quân ra cùng với Đăng Dung đi đánh, quân Hoằng Dụ thua to, chết rất nhiều, Hoằng Dụ lại lui quân về Thanh Hóa. Từ đây Mạc Đăng Dung thống lĩnh quân thủy bộ.
Tháng 7 năm 1519, Mạc Đăng Dung thống lĩnh các quân thủy bộ vây Lê Do ở Từ Liêm, rồi phá đê cho nước vỡ vào quân Lê Do. Do và Nguyễn Sư chạy đến Ninh Sơn, bị Đăng Dung bắt được, giải về giết chết. Trịnh Tuy bỏ chạy về Thanh Hóa. Các tướng Sơn Tây là Nguyễn Kính, Nguyễn Áng, Hoàng Duy Nhạc đều xin hàng Mạc Đăng Dung. Chiêu Tông phong Mạc Đăng Dung làm Minh quận công. Ông một mình nhân cầm quân dẹp loạn mà từ đó nắm hết quyền bính, vua hồi Kinh sư, việc thiên hạ tạm yên.
Năm 1520, Đăng Dung được vua sai làm Tiết chế các xứ thủy bộ chư dinh, lấy Phạm Gia Mô làm Tán lý quân vụ. Năm sau, lại được phong làm Nhân quốc công, tiết chế các doanh quân thủy bộ 13 đạo, tháng 7 lại gia phong Đăng Dung làm Thái phó. Năm 1521, sau khi đánh lui được Trịnh Tuy vào Thanh Hóa, Mạc Đăng Dung nắm quyền điều hành triều chính Nhà Lê. Đăng Dung mang quân đánh lực lượng của Trần Cung ở Lạng Nguyên. Trần Cung bại trận, bỏ chạy vào châu Thất Nguyên. Mạc Đăng Dung điều quân tuần tiễu truy nã và bắt được Trần Cung, bị giải về kinh thành giết chết.
Lúc này quyền thế của Mạc Đăng Dung rất lớn, kiểm soát toàn bộ triều đình. Ông gây dựng phe cánh gồm thông gia Phạm Gia Mô làm Thượng thư Bộ Lễ, em rể là Quỳnh khê hầu Vũ Hộ làm Hữu đô đốc trấn thủ Sơn Tây; ngoài ra còn có các Thượng thư Trình Chí Sâm và Nguyễn Thì Ung ngả theo ông. Mạc Đăng Dung lại tiến vua một mỹ nhân, giả danh là con gái, vào làm cung tần để dò la tin tức, lại sai em là Mạc Quyết giữ đạo binh Túc vệ, con trai Đăng Doanh giữ điện Kim Quang.
Năm 1522, Lê Bá Hiếu nổi dậy chống triều đình ở vùng Đông Ngàn, Gia Lâm. Mạc Đăng Dung lại mang quân đi đánh dẹp được. Mạc Đăng Dung lập nhiều công lớn, dẹp được nhiều lực lượng chống đối triều đình nên quyền lực của ông càng lớn. Sử gia Lê Quý Đôn viết rằng: "công danh ngày càng thịnh, triều đình ai cũng phục".
Khi đó Mạc Đăng Dung đi bộ thì lọng phượng giát vàng, đi thủy thì thuyền rồng dây kéo, ra vào cung cấm không kiêng sợ gì. Ông giết thị vệ Nguyễn Cấu, Đô lực sĩ Minh Sơn bá Nguyễn Thọ và Đàm Cử vốn là những người trung thành với Lê Chiêu Tông.
Vua Lê Chiêu Tông rời kinh sư, hiệu triệu thiên hạ hỏi tội Đăng Dung
Trước sự lớn mạnh của thế lực Mạc Đăng Dung, vua và các cựu thần Nhà Lê không bằng lòng, nhưng bất lực. Nghe theo lời một số cận thần trung thành, đêm 27 tháng 7 năm 1522, Chiêu Tông rời kinh thành chạy sang Sơn Tây hiệu triệu bốn phương hỏi tội Mạc Đăng Dung. Ngay ngày hôm sau, Mạc Đăng Dung sai Hoàng Duy Nhạc đem quân đuổi theo, trận chiến xảy ra, Hoàng Duy Nhạc tử trận. Trong tình huống kinh thành trống vắng, vua không còn ở Kinh sư, Mạc Đăng Dung đã bàn với các đại thần tạm thời lập Hoàng đệ Xuân (Lê Cung Hoàng) làm vua. Ngày 1 tháng 8 năm 1522, Đăng Dung và một số triều thần Nhà Lê cùng tôn Hoàng đệ Xuân lên ngôi Hoàng đế, đổi niên hiệu là Thống Nguyên năm thứ 1.
Chiêu Tông sai người triệu Vũ Hộ đến giúp, nhưng Vũ Hộ lại mang 3000 quân ngả theo Mạc Đăng Dung. Bấy giờ, các xứ Tây, Nam, Bắc đều theo Lê Chiêu Tông. Mạc Đăng Dung chia các dinh thủy, bộ đánh vào các xứ ở bến Đông Hà, Chiêu Tông sai Lại Thúc Mậu, Nguyễn Dư Hoan, Nguyễn Định, Đàm Khắc Nhượng dàn trận chống giữ và cầm cự, bị Đăng Dung đánh bại. Trịnh Tuy từ Thanh Hóa ra cứu Lê Chiêu Tông. Nghe lời gièm pha, Tuy mang xa giá chạy vào Thanh Hóa, không liên kết với các tướng quanh kinh thành đang giúp Chiêu Tông, do đó lực lượng ủng hộ Chiêu Tông nhiều người giải tán.
Bấy giờ, trong một nước có hai vua, vua Lê Chiêu Tông ở Thanh Hóa đại diện cho lực lượng cựu thần Nhà Lê do Trịnh Tuy cầm đầu và Lê Cung Hoàng ngự tại dinh Bồ Đề, mọi việc do Mạc Đăng Dung sắp xếp và đối phó. Sau khi đàn áp một số lực lượng nổi dậy, thế lực Mạc Đăng Dung vô cùng mạnh mẽ, kiểm soát và làm chủ vùng Kinh Bắc, quan lại và quân dân đến quy phục ngày một đông.
Năm 1523, Mạc Đăng Dung sai em là Mạc Quyết cùng Vũ Hộ và Vũ Như Quế mang quân đánh Lê Chiêu Tông và Trịnh Tuy ở Thanh Hóa. Cùng lúc, ông nhân danh vua mới Lê Cung Hoàng tuyên bố phế truất Chiêu Tông làm Đà Dương vương. Năm 1524, Mạc Đăng Dung nắm chức Bình Chương quân quốc trọng sự, Thái phó, tước Nhân quốc công. Tháng 10 năm 1525, Mạc Đăng Dung tiến đánh Trịnh Tuy ở đầu nguồn Thanh Hóa. Trịnh Tuy thất thế rồi qua đời, Chiêu Tông bị bắt giải về Kinh sư. Sau đó Mạc Đăng Dung tiếp tục đánh dẹp các lực lượng trung thành với Lê Chiêu Tông do các tướng Giang Văn Dụ, Hà Phi Chuẩn đứng đầu. Ông tiêu diệt các tướng chống đối.
Các lực lượng chống đối đều bị dẹp, mọi quyền lực đều thuộc về Mạc Đăng Dung. Mạc Đăng Dung lui về Cổ Trai nhưng vẫn chế ngự triều chính. Ngày 18 tháng 12 năm 1526, Mạc Đăng Dung sai Phạm Kim Bảng bí mật giết Chiêu Tông ở chỗ bị giam lỏng là phường Đông Hà
Lên ngôi vua, thành lập Nhà Mạc
Tháng 4 năm 1527, Lê Cung Hoàng sai đình thần cầm cờ tiết đem kim sách, áo mão thêu rồng đen, đai dát ngọc, kiệu tía, quạt vẽ, lọng tía đến Cổ Trai, tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương, gia thêm cửu tích. Tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung từ Cổ Trai trở lại kinh đô ép Lê Cung Hoàng nhường ngôi. Sử gia Lê Quý Đôn chép: “lúc này thần dân phần nhiều xu hướng về Đăng Dung, đều ra đón về kinh đô”.
Ngày 15 tháng 6 năm 1527 Đông các Đại học sĩ Nguyễn Văn Thái soạn tờ chiếu, nội dung như sau:
"Nghĩ Thái Tổ ta, thừa thời cách mệnh, có được thiên hạ, các vua truyền nhau, nối giữ cơ đồ, là do mệnh trời lòng người cùng hợp, cùng ứng nên mới được thế. Cuối đời Hồng Thuận, gặp nhiều tai hoạ, Trần Cảo đầu têu gây mầm loạn ly, Trịnh Tuy giả trá lập kế phản nghịch. Lòng người đã lìa, mệnh trời không giúp. Khi ấy thiên hạ đã không phải là của nhà ta. Ta không có đức, lạm giữ ngôi trời, việc gánh vác không kham nổi. Mệnh trời lòng người đều theo về người có đức. Xét Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung nhà ngươi, bẩm tính thông minh, sáng suốt, có tài lược văn võ. Bên ngoài đánh dẹp bốn phương, các nơi đều phục tùng; bên trong coi sóc trăm quan, mọi việc đều tốt đẹp. Công to đức lớn, trời cho người theo. Nay ta cân nhắc lẽ phải, nên nhường ngôi cho. Hãy gắng sửa đức lớn, giữ mãi mệnh trời để ức triệu dân lành được yên vui. Mong kính theo đó."
Lúc bấy giờ rất nhiều quan lại tử tiết để phản đối nhà Mạc giết vua cướp ngôi, từ đó thổi bùng lên ngọn lửa đấu tranh "phù Lê diệt Mạc". Bấy giờ triều thần có Lại bộ Thượng thư Đông các Đại học sĩ Vũ Duệ, Lại bộ Thượng thư Ngô Hoán, Thị thư viện Hàn lâm Nguyễn Mẫn Đốc, quan Đô ngự sử là Nguyễn Văn Vận, quan Hàn lâm hiệu lý là Nguyễn Thái Bạt, quan Lễ bộ Thượng thư là Lê Tuấn Mậu, quan Lại bộ Thượng thư là Đàm Thận Huy, quan Tham chính sứ là Nguyễn Duy Tường, quan Quan sát sứ là Nguyễn Tự Cường, tước Bình Hồ bá là Nghiêm Bá Ký, quan Đô ngự sử là Lại Kim Bảng, Hộ bộ Thượng thư Nguyễn Thiệu Tri, quan Phó Đô ngự sử là Nguyễn Hữu Nghiêm, quan Lễ bộ tả Thị lang là Lê Vô Cương đều là người khoa giáp; có người thì khởi binh phù Lê thất bại và bị giết, có người thì theo vua Lê không kịp, nhảy xuống sông mà chết, người thì quay đầu về Lam Sơn bái lạy rồi tự tử. Sau này, khi dẹp xong nhà Mạc, nhà Lê được trung hưng lại, vua Lê Huyền Tông và triều đình bàn luận công lao, truy phong tước phúc thần cho 13 vị trung thần tiết nghĩa vì nước hy sinh này, trong đó xếp ông Vũ Duệ đứng đầu trong số 13 người
Mạc Đăng Dung lên ngôi, tức là vua Mạc Thái Tổ, chính thức lập ra Nhà Mạc. Nhà Lê truyền được 100 năm đến đây kết thúc, nhưng công đức vua Lê Thái Tổ và vua Lê Thánh Tông làm cho nhiều người vẫn không quên nhà Lê, cho nên dù Mạc Đăng Dung có cướp được ngôi cũng không được lâu bền. Chẳng bao lâu, khắp nơi nổi lên những đội quân "phù Lê diệt Mạc" muốn diệt trừ Mạc Đăng Dung để khôi phục nhà Lê.
Thành lập nhà Mạc
Chính trị - Kinh tế
Ngày 15 tháng 6 năm 1527, Mạc Đăng Dung xưng Hoàng đế, ban lệnh đại xá thiên hạ, đổi niên hiệu là năm Minh Đức thứ nhất; phế truất vua Cung Hoàng làm Cung vương, giam cùng Thái hậu. Vài tháng sau Mạc Đăng Dung ép cả hai phải tự tử, khi chết rồi Đăng Dung sai người mang xác phơi ở quán Bắc Sứ, sau đem chôn ở lăng.
Vào tháng 6, Đăng Dung vào kinh thành, ngự nơi chính điện, tế trời ở đàn Nam giao, dựng tôn miếu, lấy Hải Dương làm Dương Kinh, lập cung điện ở Cổ Trai; truy tôn miếu hiệu, xây dựng mộ phần cho tổ tiên họ Mạc. Lập con trai là Mạc Đăng Doanh làm Thái tử, phong em trai là Quyết làm Tín vương, truy phong em trai là Đốc làm Từ vương, 3 em gái đều phong công chúa, lấy ngày sinh nhật của mình làm ngày Càn Ninh khánh tiết. Đăng Dung dựng thêm một ngôi điện để ở, gọi là điện Phúc Huy, tại phía tây điện Hưng Quốc ở Dương Kinh, phong cho một người tôn thất họ Mạc làm Tĩnh quốc công, trung quan Nguyễn Thế Ân làm Ly quốc công để giúp rập.
Lúc này thần dân thất vọng, cả nước hoang mang, Đăng Dung sợ lòng người nhớ vua cũ, để lại sinh biến, nên phải tuân giữ pháp độ của Nhà Lê, không dám thay đổi, phủ dụ thần dân, trấn áp lòng người, che bịt mắt tai họ. Lại lập mưu tìm con cháu các nhà thế gia công thần, những người ấy phần nhiều chạy vào rừng núi, phần ẩn náu không chịu ra, kẻ tụ tập làm cướp, kẻ ra nước ngoài làm quan.
Năm 1528, Mạc Đăng Dung muốn đổi tiền làm chính lệnh mới, bèn sai đúc tiền Thông Bảo theo cách đúc tiền cũ, nhưng phần nhiều không thành. Sau lại đúc các loại tiền gián pha kẽm và sắt ban hành các xứ trong nước để thông dụng. Lấy Nguyễn Quốc Hiến làm Phò mã Đô úy Thái bảo Lâm quốc công, ban cho họ Mạc; Mạc Quốc Trinh làm Thái sư Lâm quốc công, Mạc Đình Khoa làm Tả đô đốc Khiêm quận công, Thiếu bảo Thông quận công Nguyễn Thì Ung, Lai quận công Trần Phỉ, Thuần Khê hầu Khuất Quỳnh Cửu... gồm 56 người đều được thăng trật, ban tước có thứ bậc khác nhau.
Tháng 10, 1528, Đăng Dung cho là sau khi bình yên, chế độ dần dần lỏng lẻo, ý muốn đổi thay chấn chỉnh lại, liền sai bề tôi là Nguyễn Quốc Hiến bàn định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt bốn vệ Hưng quốc, Chiêu vũ, Cảm y, Kim ngô, năm phủ, các vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty, tên quan và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, phỏng theo quan chế triều trước. Lấy quân trấn giữ xứ Hải Dương cho lệ thuộc vào vệ Hưng quốc, quân trấn giữ xứ Sơn Nam lệ thuộc vào vệ Chiêu vũ, quân trấn xứ Sơn Tây lệ thuộc vào vệ Cẩm y, quân trấn xứ Kinh Bắc lệ thuộc vào vệ Kim ngô. Phân bổ các ty, mỗi ty đặt 1 viên Chỉ huy sứ, 1 viên Chỉ huy đồng tri, 1 viên Chỉ huy thiêm sự, 10 viên Trung hiệu, 1100 Trung sĩ, chia thành 22 phiên để túc trực. Nếu có công lao thì bổ lên chức Thiên hộ, Thống chế, Quản lĩnh, Trung úy. Mỗi vệ đặt 1 viên Thư ký, dùng hạng Ký lục xuất thân khi trước, như là bổ các chức thủ lĩnh mục dân. Còn các Trung sĩ thì theo lệ chia phiên, mỗi phiên thành 5 giáp, mỗi giáp đặt một viên Giáp thủ, quan bản ty chọn lấy hạng trung hiệu người nào đích đáng thì làm bản đưa lên để thăng bổ. Đăng Dung lại mở khoa thi cử nhân, lấy Đỗ Tông và 27 người trúng tuyển.
Mùa đông năm 1529, Mạc Đăng Dung đã làm vua được 3 năm, tự thấy mình tuổi già, bèn truyền ngôi cho con trưởng Đăng Doanh, tự xưng là Thái thượng hoàng, ra ở điện Trường Quang, coi nghề đánh cá là thú ngao du tự lạc. Theo sử gia Lê Quý Đôn, Đăng Dung về Cổ Trai ở là để trấn giữ nơi căn bản, làm ngoại viện cho con nhưng vẫn quyết định những việc trọng đại. Đăng Doanh lên làm Hoàng đế, dựng cung điện nguy nga cho cha ở, mỗi tháng vào ngày 8, 22 dẫn bá quan tới triều yết.
Năm 1530, cháu ngoại họ Lê tên Lê Ý khởi binh ở Thanh Hóa chống lại họ Mạc, quân số vài vạn người, Mạc Đăng Dung tự thân cầm vài vạn quân thủy bộ giao chiến với Lê Ý ở sông Mã, quân Đăng Dung thường thua luôn, đành dẫn quân về, để Mạc Quốc Trinh ở lại chống giữ. Sau đó Mạc Đăng Doanh từ kinh sư dẫn quân vào, giao chiến với Lê Ý, lại bị đánh bại, dẫn quân trở về. Sau những chiến thắng, Lê Ý chủ quan, quân ít lương hết, đội ngũ rời rạc, Mạc Quốc Trinh nghe tin báo liền dẫn quân tinh nhuệ tập kích, bắt sống Lê Ý về kinh sư sai ngựa xé xác.
Lê Ý thất bại nhưng thổ tù các nơi vẫn không qui phục Nhà Mạc, Nguyễn Kim đóng ở Ai Lao, anh em Trịnh Ngung, Trịnh Ngang chiếm cứ xứ Thái Nguyên; Vũ Văn Uyên chiếm xứ Tuyên Quang, các tướng này đều danh nghĩa phục quốc. Suốt một dải ven núi các xứ Thanh, Nghệ, Tuyên, Hưng đều không theo họ Mạc.
Năm 1531, viên Bích Khê hầu Lê Công Uyên, người huyện Lôi Dương, cháu của công thần thời vua Lê Thái Tổ là Lê Văn Linh, khởi binh đánh vào cửa Chu Tước, bị thua phải chạy vào Thanh Hóa. Đăng Dung phát binh diệt trừ, Lê Công Uyên bị giết, xứ Thanh Hóa, Nghệ An binh hỏa liên miên, nhân dân lưu tán, vườn ruộng bỏ hoang.
Đến năm sau, lại mở khoa thi, lấy đỗ Nguyễn Thiến, Bùi Vinh, Ngô Sơn Khoái... tổng cộng 27 người tất cả. Năm 1535 mở khoa thi, lấy đỗ Nguyễn Bỉnh Khiêm tổng cộng 32 người. Năm 1538 mở khoa thi, lấy đỗ Giáp Hải tổng cộng 36 người.
Ra lệnh cấm người các xứ trong, ngoài không được cầm giáo mác và dao nhọn, can qua, cùng những binh khí khác hoành hành trên đường đi. Ai vi phạm thì cho phép ty bắt giữ. Từ đấy, người buôn bán và kẻ đi đường đều đi tay không, ban đêm không còn trộm cướp, trâu bò thả chăn không phải đem về, chỉ cần mỗi tháng xem lại một lần, có khi sinh đẻ cũng không biết được là gia súc nhà mình. Trong khoảng vài năm, người đi đường không nhặt của rơi, cổng ngoài không phải đóng, được mùa liên tiếp, trong cõi tạm yên.
Ở Ai Lao, con nhà dòng dõi công thần Nguyễn Đức Trung từ thời vua Lê Thái Tổ là An Thành hầu Nguyễn Kim, con của Nguyễn Hoằng Dụ và cháu của Nguyễn Văn Lang lập cháu của Lê Thánh Tông tên Lê Ninh lên làm minh chủ. Nguyễn Kim dẫn quân về Thanh Hóa, Đăng Dung mang quân đến đánh, bị thua to. Đến năm 1540 Mạc Đăng Doanh chết, Đăng Dung trở về Thăng Long, dựng cháu nội là Phúc Hải lên nối ngôi.
Ngoại giao với Nhà Minh
-
Việc cắt đất lần thứ nhất
Sau khi lên ngôi được 1 năm, tức năm 1528, Mạc Đăng Dung sai người sang Yên Kinh báo với Nhà Minh với nội dung là con cháu họ Lê không còn ai thừa tự nữa, dặn cho đại thần họ Mạc tạm trông coi việc nước, cai trị dân chúng. Vua Minh không tin, sai người dò la tin tức, ngầm lập con cháu họ Lê lên. Mạc Đăng Dung sai người trả lời bằng lời lẽ văn hoa, đem nhiều vàng bạc đút lót. Đến khi sứ giả Nhà Minh về, mật tâu với vua Minh là con cháu Nhà Lê đã hết, đã ủy thác cho họ Mạc, người trong nước đều theo phục cả. Vua Minh mắng sứ giả, Đăng Dung sợ vua Minh hỏi tội liền lập mưu cắt đất dâng nhân dân hai châu Quy, Thuận và hai tượng người bằng vàng, bạc cùng châu báu vật lạ. Vua Minh nhận, từ đó Bắc Nam thông hiếu đi lại. (Cần đối chiếu nhiều nguồn sử liệu để xác định tính hợp lý, thay vì chép y theo Toàn Thư)
-
Về việc cắt đất lần thứ hai
Năm 1529, bề tôi cũ của triều Lê là Trịnh Ngung, Trịnh Ngang sang Nhà Minh tố cáo với Nhà Minh việc họ Mạc. Mạc Đăng Dung đem nhiều vàng bạc đút lót để phá; việc không thành, hai anh em chết ở Trung Quốc. Năm 1533, An Thành hầu Nguyễn Kim lập vua Lê Trang Tông ở Ai Lao, sai Trịnh Duy Liêu vượt biển sang Nhà Minh, Duy Liêu tâu rằng, Mạc Đăng Dung tiếm loạn, chiếm kinh thành ngăn trở đường đi nên từ lâu bỏ việc cống. Vua Minh hay tin, bèn sai Hàm Ninh hầu Cừu Loan làm Tổng đốc quân vụ, Binh bộ Thượng thư Mao Bá Ôn làm Tham tán quân vụ đem quân sang đóng gần cửa Nam Quan rồi truyền hịch đi mọi nơi, hễ ai bắt được cha con Mạc Đăng Dung thì thưởng cho quan tước và hai vạn bạc. Lại sai người đưa thư sang cho Mạc Đăng Dung bảo phải đưa sổ ruộng đất nhân dân sang nộp và chịu tội, thì được tha cho khỏi chết. Năm 1536, Nguyễn Kim lại sai Trịnh Viên sang Nhà Minh tâu trình. Năm 1538, triều Mạc sai Nguyễn Văn Thái sang Nhà Minh dâng biểu xin hàng và xin được phân xử.
Theo Trần Trọng Kim trong sách Việt Nam sử lược: Việc định sang đánh họ Mạc không phải là vua Nhà Minh có vị gì họ Lê, nhưng chẳng qua cũng muốn nhân lúc nước Nam có biến, lấy cớ mà sang làm sự chiếm giữ như khi trước sang đánh họ Hồ vậy. Ta phải biết rằng phàm những việc nước nọ giao thiệp với nước kia thì thường là người ta mượn tiếng "vị nghĩa" mà làm những việc "vị lợi" mà thôi.
Năm 1540, Mạc Đăng Doanh chết, Mạc Đăng Dung lập cháu Phúc Hải lên nối ngôi. Mùa đông, tháng 11, Mạc Đăng Dung cùng với cháu là Văn Minh và bề tôi là Nguyễn Như Quế, Đỗ Chế Khanh, Đặng Văn Tri, Lê Thuyên, Nguyễn Tổng, Tô Văn Tốc, Nguyễn Kinh Tế, Dương Duy Nhất, Bùi Trí Vĩnh, qua Trấn Nam Quan, mỗi người đều cầm thước, buộc dây ở cổ, đi chân không đến phủ phục trước mạc phủ của quân Minh quỳ gối, cúi đầu dâng tờ biểu đầu hàng, nộp hết sổ sách về đất đai, quân dân và quan chức cả nước để chờ phân xử, dâng các động Tê Phù, Kim Lặc, Cổ Sâm, Liễu Cát, An Lương, La Phù của châu Vĩnh An trấn Yên Quảng, xin cho nội thuộc vào Khâm Châu. Lại xin ban chính sóc, cho ấn chương, để kính cẩn coi giữ việc nước và chờ lệnh thay đổi hay quyết định khác. Lại sai Văn Minh và Nguyễn Văn Thái, Hứa Tam Tỉnh mang biểu đầu hàng sang Yên Kinh.
Tướng Nhà Minh bèn xin với vua Minh ban cho lịch, cho ấn chương và bảo ông giữ cẩn thận để quyết định sau. Năm 1541, Nhà Minh phong làm An Nam đô thống ty sứ, cho ấn bạc, vẫn cho thế tập. Còn 13 lộ cứ để tên cũ, đều lập phủ ty, đặt các chức như Tuyên phủ, Đồng tri, Phó sứ và Thiêm sự, cho chức Đô thống sứ được cai quản, điều khiển và phải triều cống.
Qua Đời
Sau khi lên biên giới để cắt đất trở về, ngày 22 tháng 8 năm 1541, Thái Tổ Mạc Đăng Dung băng hà. Trước khi mất ông có để lại di chúc không làm đàn chay cúng Phật và khuyên Mạc Phúc Hải phải nhanh chóng về kinh sư để trấn an nhân tâm và xã tắc là trọng.