XÂY DỰNG CĂN CỨ ĐỊA, MỞ RỘNG HẬU PHƯƠNG
Phát động quần chúng nhân dân đánh giặc không phải chỉ có vận động dân cày tham gia khởi nghĩa mà còn đòi hỏi sự thực hiện nhiều biện pháp khác để đáp ứng thích đáng những yêu cầu của công cuộc phát động dân chúng đánh giặc. Tư tưởng và những kế sách cụ thể của Nguyễn Trãi đã góp phần giải quyết tốt nhiều biện pháp đó, như tổ chức và giáo dục quân đội, chuẩn bị lương thực, khí giới, xây dựng hậu phương và trước mắt là phải xây dựng ngay căn cứ địa.
Hòa hoãn của nghĩa quân Lam Sơn là để tạo điều kiện cho phong trào vươn lên một giai đoạn phát triển mới. Trong bài Phú núi Chí Linh, Nguyễn Trãi đã nói rõ chủ trương hòa hoãn của mình và nghĩa quân Lam Sơn là "trong sửa chiến cụ, ngoài giả hòa thân”.
Muốn làm được như thế, nghĩa quân cần phải có một nơi an toàn, một căn cứ địa mà quân Minh không thể xâm phạm tới được. Đó là vấn đề mà trong 5 năm chiến đấu đã qua, các lãnh tụ nghĩa quân chưa quan tâm đến một cách đầy đủ. Khi mới bắt đầu khởi nghĩa cũng như trong suốt 5 năm chiến đấu, nghĩa quân đã không có một nơi đứng chân vững chắc. Lam Sơn là căn cứ xuất phát của phong trào, mỗi khi quân tàn lương hết, nghĩa quân lại về đấy để lấy thêm lương, mộ thêm quân. Nhưng Lam Sơn chưa phải là một căn cứ tốt, chưa làm được đầy đủ những chức năng của một căn cứ địa. Mỗi khi nghĩa quân có mặt ở Lam Sơn, mà địch kéo tới, nghĩa quân lại phải rời khỏi Lam Sơn, không thể đứng vững ở đấy để đối phó với địch. Núi Chí Linh, trong 5 năm qua, cũng chỉ là nơi để mỗi khi không đủ sức đối phó với những cuộc đánh phá ác liệt của địch, nghĩa quân tạm thời rút về đấy thủ hiểm, và cũng chỉ thủ hiểm trong một thời gian rất ngắn được thôi. Vì về Chí Linh ngày nào là đói ngày ấy, nghĩa quân không thể sống yên ổn và lâu dài ở đấy được quá vài tháng. Cho nên núi Chí Linh cũng chưa phải là căn cứ địa của nghĩa quân. Còn Ba Lẫm, Lỗi Giang ở vùng Tây Bắc Thanh Hóa, trong các năm 1420 - 1422, chỉ là nơi đóng quân khi nghĩa quân chưa có giao tranh với địch. Tới khi có giao tranh, nghĩa quân thường xê dịch nơi này nơi khác luôn luôn. Như thế, Ba Lẫm, Lỗi Giang cũng chưa phải là căn cứ địa. Do đó, trong 5 năm qua, nghĩa quân Lam Sơn đã ở trong tình trạng luôn luôn di động, không đứng yên ở một chỗ nào, không gây dựng được cơ sở lâu dài, không mở rộng được vùng giải phóng, không phát triển được lực lượng thích đáng với yêu cầu phát triển của chiến tranh.
Vấn đề căn cứ địa chưa được quan tâm một cách đầy đủ, thì vấn đề hậu phương cũng khó đặt ra được. Nghĩa quân đã không tranh thủ thời cơ đánh địch, mở rộng phong trào, xây dựng một hậu phương lớn rộng làm hậu thuẫn cho phong trào. Có hậu phương thì mới có nhân lực, vật lực, tài lực dồi dào cung ứng cho tiền tuyến. Chiến đấu trong điều kiện giặc có cơ sở thống trị của chúng trên cả nước, có quân đội chính quy đông mạnh, có vũ khí, lương thực đầy đủ, lại có hậu phương rộng lớn từ bên nước chúng nối liền sang nước ta, lúc nào cũng có thể đưa thêm quân, lương, khí giới sang chi viện cho những hành động chiến tranh đàn áp của chúng ở Việt Nam, thì việc có một hậu phương vững mạnh đối với nghĩa quân Lam Sơn lại càng cần thiết. Trong 5 năm chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa, thời cơ để mở rộng phong trào xây dựng hậu phương lớn mạnh đã có nhiều.
Lần thứ nhất là từ tháng 9 năm 1419 tới cuối năm 1420 trong hơn một năm đó, phong trào khởi nghĩa của nhân dân ta bùng nổ ở nhiều nơi, địch phải rời bỏ chiến trường Thanh Hóa, dồn quân đi các nơi, hết vào Nam lại ra Bắc, để lo đối phó với các phong trào. Lần thứ hai là từ đầu năm 1420 tới cuối năm 1422, trừ một lần tiến công không thành của địch vào cuối năm 1421, còn trong cả hai năm đó, địch mắc lo nhiều việc khác, không thực hiện được một cuộc hành quân nào vào Thanh Hóa để giao chiến với nghĩa quân Lam Sơn. Nhưng nghĩa quân Lam Sơn đã bỏ lỡ những thời cơ đó, vẫn tự thủ ở miền núi rừng Thanh Hóa, bó hẹp phạm vi hoạt động của mình tại đấy, không tranh thủ thời cơ địch không có đông quân ở Thanh Hóa, Nghệ An, để chủ động tiến công và có thể tiến công liên tục, để mở rộng phong trào giành lấy chủ quyền trên những phần đất đai phong phú, phì nhiêu, đất rộng người đông ấy. Chính vì không tranh thủ thời cơ đánh địch, xây dựng hậu phương, nên đi đến tình trạng sau trận đánh huyện Khôi đầu năm 1423, quân không còn một lữ như Nguyễn Trãi đã nói, tức là quân chưa đầy 500 người; không bằng quân số ngày đầu khởi nghĩa.
Sau 5 năm chiến đấu có nhiều thắng lợi mà để đi tới chỗ lực lượng bị suy giảm như vậy là một thiếu sót nghiêm trọng.
Để khắc phục tình trạng đó, và để mau chóng thực hiện được mục đích hòa hoãn, nghĩa quân Lam Sơn thấy cần phải có một nơi, như Nguyễn Trãi đã nói, để:
... thu nhặt tàn quân, chăm lo nuôi dưỡng
Trong sửa chiến cụ, ngoài giả hòa thân
Quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân...
(Phú núi Chí Linh)
Đó chính là nhiệm vụ của một căn cứ địa. Và vấn đề được đặt ra cho nghĩa quân là: lấy đâu làm căn cứ địa. Lam Sơn không phải là nơi hiểm trở, bảo đảm an toàn cho nghĩa quân. Chí Linh là nơi hiểm trở, nhưng chỉ bó hẹp căn cứ địa trong vùng núi đó thì không có dân. Mà không có dân, không dựa vào dân thì không những không có lương thực, vũ khí mà cũng không thể phát triển lực lượng được. Một yêu cầu bức thiết của nghĩa quân lúc này là phải "quyên tiền mộ lính", mà quyên tiền mộ lính là phải dựa vào dân, trông vào dân: tiền cũng là ở dân, lính cũng là ở dân, lương thực, khí giới cũng đều là ở dân. Do đấy nghĩa quân Lam Sơn quyết định lấy cả vùng Chí Linh - Lam Sơn làm căn cứ địa. Chí Linh, một ngọn núi cao hiểm trở sẽ là trung tâm của căn cứ địa, là nơi luyện tập quân sĩ, tích trữ lương thực, chế tạo khí giới. Lam Sơn sẽ là đồn tiền tiêu của căn cứ địa, lấy đó làm nơi tiếp xúc với nhân dân, đón tiếp nhân tài, quyên tiền mộ lính, và cũng là nơi giao tiếp với địch trong thời kỳ hòa hoãn. Lam Sơn cách Chí Linh không xa lắm. Như vậy căn cứ địa bao gồm một khu vực tuy còn nhỏ hẹp, nhưng gộp cả hai cứ điểm Chí Linh và Lam Sơn làm một, vùng đất đai và dân cư ở giữa Chí Linh và Lam Sơn đều nằm trong căn cứ địa mới, khiến căn cứ địa vừa có núi rừng hiểm trở vừa có nhân dân làm chỗ dựa cơ bản của nghĩa quân. Thực hiện kế hoạch xây dựng căn cứ địa, ngày 19 tháng 5 năm 1423 (ngày 10 tháng 4 năm Quý Mão), Lê Lợi từ Chí Linh tiến ra Lam Sơn. Và từ đấy, công việc củng cố và phát triển lực lượng được tiến hành gấp rút.
Căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn, trong thời kỳ tạm thời hòa hoãn với địch, đã đóng góp phần tích cực vào việc củng cố phong trào, đem lại cho phong trào một sự chuyển hóa lực lượng mạnh mẽ, đưa phong trào sang một giai đoạn phát triển mới. Sau này, khi công cuộc cứu nước thành công, Lê Lợi và các tướng lĩnh vẫn tha thiết nhớ căn cứ Chí Linh - Lam Sơn, mà núi Chí Linh là trung tâm của căn cứ. Do đấy đã có một loạt bài Chí Linh sơn phú của Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, và có thể còn của nhiều văn thần khác nữa, để nhớ lại, ca ngợi, ghi công núi Chí Linh.
Trong Chí Linh sơn phú, Nguyễn Trãi đã nói: "... vua ta thật đã từ núi này bắt đầu dựng nên nghiệp lớn". Nguyễn Mộng Tuân trong bài Chí Linh sơn phú của ông, cũng khẳng định: "Núi Lam phất cờ, núi Chí Linh đặt nền tảng", và "Núi Chí Linh giúp vua mở vận, cũng như núi Cối Kê náu quân giáp, núi Mang Đãng rợp bóng mây... Nghiệp lớn bước đầu gây dựng núi này đã có nhiều công".
Căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn rõ ràng đã có một tác dụng quan trọng cho sự phát triển lớn mạnh của phong trào Lam Sơn.
Nhưng căn cứ địa dù tốt đến đâu cũng không phải là nơi để nghĩa quân đóng chốt lâu dài, giẫm chân tại chỗ, mà phải đẩy mạnh phong trào, mở rộng vùng căn cứ, tiến tới xây dựng một hậu phương rộng lớn làm chỗ dựa vững chắc cho sự phát triển của phong trào. Sau thời gian tạm thời hòa hoãn với địch, khi chuẩn bị ra quân, Nguyễn Trãi đã đề ra việc chuyển hướng chiến lược đánh xuống đồng bằng để tạo điều kiện xây dựng một hậu phương ngày càng mở rộng, có nhiều đất nhiều dân, có đầy đủ nhân lực, vật lực, tài lực để cung ứng cho tiền tuyến đánh thắng giặc. Không tiến xuống đồng bằng, không có hậu phương vững chắc, không thể đánh thắng được giặc. Hậu phương là một vấn đề quan trọng, đã được các thời đại khẳng định như một trong những nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh:
"Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào. Hậu phương cũng là nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi, không có một hậu phương vững mạnh thì tiền tuyến không thể thắng giặc được. Một hậu phương mạnh là một hậu phương có tiềm lực kinh tế và quốc phòng hùng hậu. Có một dự trữ dồi dào để cung cấp lương thực, súng đạn, sức người, sức của đầy đủ cho tiền tuyến...
Trong bất cứ một cuộc chiến tranh nào, người ta vẫn phải sản xuất, không có một cuộc chiến tranh nào chỉ có đánh nhau mà không có sản xuất; không có sản xuất, không có hậu phương thì không sao đánh thắng được giặc".
Để chuẩn bị chiến đấu lâu dài với địch, về mặt vật chất, cố nhiên phải dựa vào sự ủng hộ của nhân dân là chính, nhưng Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn cũng chủ trương cố gắng tự túc một phần nào, trong chừng mực có thể được, "vừa cày ruộng, vừa đánh giặc" và tích cực thực hiện khẩu hiệu: lấy của giặc làm của mình, như Nguyễn Trãi thường nói: "Lương thực, khí giới, lấy của giặc làm của mình", "phàm cung tên, giáo mộc của giặc đều là chiến khí của ta, vàng bạc châu báu của giặc đều là quân tư của ta. Cái mà chúng muốn dùng để hại ta lại trở lại làm hại chúng. Cái mà chúng muốn dùng để đánh ta, lại trở lại để đánh chúng".
Những nhận thức của Nguyễn Trãi về hậu phương, về chiến đấu và sản xuất thật là sáng suốt.
Từ căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn tiến xuống trung nguyên, tức vùng đồng bằng, xây dựng hậu phương, thu đất, giành dân, lập chính quyền ta, phá chính quyền địch, vừa đánh giặc, vừa dựng nước; vừa cày ruộng, vừa đánh giặc, Nguyễn Trãi đã chủ trương rất đúng.
XÂY DỰNG LỰC LƯỢNG VŨ TRANG
Có thời gian hòa hoãn với địch, có căn cứ địa an toàn, có đường lối phát động quần chúng tham gia khởi nghĩa, lực lượng nghĩa quân đã phát triển nhanh chóng. Với lực lượng được tăng cường, nghĩa quân tiến hành khẩn trương việc tổ chức lại quân đội, chuẩn bị lương thực, khí giới và tích cực rèn luyện tướng sĩ.
Nghĩa quân Lam Sơn đã tới giai đoạn cần được tổ chức thành quân đội dân tộc, một quân đội mạnh để đánh thắng hẳn giặc. Đó là bước phát triển tất yếu của tất cả các lực lượng vũ trang khởi nghĩa muốn hoàn thành sự nghiệp đánh giặc cứu nước của mình: "Sau khi khởi nghĩa thắng lợi hoặc khi khởi nghĩa kéo dài thành chiến tranh giải phóng, lãnh tụ các cuộc khởi nghĩa đã tổ chức ra quân đội dân tộc đến một trình độ nhất định để tiến hành chiến tranh". Và có như thế mới tiến hành chiến tranh thắng lợi.
Để tăng cường lực lượng, khi hòa hoãn đã thành, các lãnh tụ nghĩa quân lập tức củng cố đội ngũ nghĩa quân còn lại, chăm lo nuôi dưỡng và tích cực chuẩn bị lương thực, khí giới. Đồng thời, các lãnh tụ tiến hành tổ chức quyên tiền, mộ thêm quân, tiếp đón, khoản đãi nhân dân các nơi tới ủng hộ hoặc gia nhập nghĩa quân. Cảnh tượng Chí Linh - Lam Sơn trở nên tấp nập, khẩn trương, như Nguyễn Trãi đã miêu tả trong Phú núi Chí Linh, "thu nhặt tàn quân, sửa rèn chiến cụ, quyên tiền mộ lính, giết voi khao quân".
Nhưng tăng cường lực lượng để trở thành một quân đội mạnh, không phải chỉ cần số lượng mà còn phải có chất lượng tốt, đông người chưa đủ mà điều rất cần thiết là phải có kỹ thuật đánh giỏi và có tinh thần chiến đấu cao.
Nghĩa quân Lam Sơn tuy đã dạn dầy trận mạc, tinh thần chiến đấu đã được thử thách nhiều và đã là những chiến sĩ giỏi. Nhưng số lượng những quân sĩ như thế không nhiều, chỉ còn chưa đầy một lữ. Trái lại, đại bộ phận là những thanh niên mới tuyển mộ, là tân binh. Cho nên việc huấn luyện kỹ thuật, giáo dục tinh thần, tư tưởng cho toàn quân, là rất quan trọng, không thể coi nhẹ
Về xây dựng lực lượng vũ trang dân tộc, Nguyễn Trãi đã nói tới nhiều lần. Lực lượng vũ trang ấy, theo quan điểm của Nguyễn Trãi, không đơn thuần chỉ là những người có đủ sức cầm nổi khí giới để đánh giặc, mà phải là những người có tinh thần đoàn kết chiến đấu cao, có nghệ thuật chiến đấu tài giỏi, biết sử dụng vũ khí tinh thông và có lao động sản xuất tốt. Lực lượng vũ trang dân tộc, như Nguyễn Trãi đã nói, phải là lực lượng "trên dưới cùng lòng anh hùng, hết sức, quân sĩ càng luyện, khí giới càng tinh, vừa cày ruộng vừa đánh giặc". Quan điểm đó rất tiến bộ, nhất là ở thời đại từ hơn 500 năm trước đây. Quan điểm đó đòi hỏi người binh sĩ giải phóng phải có chất lượng về nhiều mặt: có phẩm chất chính trị cao, có kỹ thuật quân sự giỏi, có lao động sản xuất thành thạo. Nhìn người chiến sĩ Việt Nam trong lực lượng vũ trang làm nhiệm vụ giải phóng dân tộc với người lính trong quân đội phong kiến làm nhiệm vụ bảo vệ ngai vàng của bọn vua chúa thì rõ ràng có một tầm cách biệt rất xa. Chính với những lực lượng vũ trang như vậy mà dân tộc ta ở các thời đại trước đã "ít đánh được nhiều, yếu thắng được mạnh" trong chiến tranh chống xâm lược, giải phóng đất nước. Từ quan điểm đó, Nguyễn Trãi đã đề ra một phương châm xây dựng lực lượng vũ trang bảo đảm cho binh sĩ có đủ năng lực hoàn thành sứ mệnh đánh giặc, cứu nước của mình. Phương châm xây dựng lực lượng vũ trang của Nguyễn Trãi là: "Vỗ nuôi sĩ tốt, vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài, sửa rèn khí giới, luyện tập binh tượng, dạy bảo những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui, lại hun đúc bằng những điều nhân nghĩa, khiến ai cũng hết lòng thành, thân với kẻ trên, chết cho người trưởng"
Lấy việc giáo dục chính trị cho quân đội làm trọng, Nguyễn Trãi đặc biệt chú ý "hun đúc bằng những điều nhân nghĩa", giáo dục binh sĩ tinh thần "chết vinh hơn sống nhục" (Phú núi Chí Linh), lấy cái chết vì nhân nghĩa làm vinh, tức lấy cái chết vì nhân dân, vì Tổ quốc làm vẻ vang, coi cái sống làm nô lệ cho giặc là nhục nhã. Trên cơ sở đồng lòng nhất trí, quyết tâm diệt địch theo tinh thần đó, mọi người sẽ kết hợp thành một khối thống nhất vững chắc, đoàn kết chặt chẽ từ trên xuống dưới, thương yêu nhau như ruột thịt, tạo thành một đạo quân "phụ tủ chi binh nhất tâm" (một lòng tướng sĩ cha con - Bình Ngô đại cáo). Không có tinh thần "chết vinh hơn sống nhục" thì không thể chịu đựng gian khổ lâu dài cho tới ngày đánh thắng hẳn giặc và không thể khắc phục mọi khó khăn để tạo cho mình một sự chuyển biến mạnh mẽ từ không đến có, từ yếu thành mạnh, không thể vừa có tinh thần đoàn kết chân thành vừa có ý thức kỷ luật cao, sẵn sàng quên mình để chấp hành mệnh lệnh chiến đấu của các cấp chỉ huy, như Nguyễn Trãi đã nói: "thân với người trên, chết cho người trưởng" (Phú núi Chí Linh). Với sự giáo dục quân đội về chính trị trên tinh thần xả thân vì nước và rèn luyện quân đội về quân phong, quân kỷ chu đáo như thế, nghĩa quân Lam Sơn sẽ trở thành một quân đội bách chiến bách thắng, một quân đội vô địch, và đúng như Nguyễn Trãi đã nói: "Đem quân ấy ra đối phó với địch, kẻ nào theo ý hướng ta sẽ sống, kẻ nào trái ý hướng ta sẽ chết"
Để có một đội ngũ cán bộ chỉ huy giỏi, Nguyễn Trãi cũng như Lê Lợi đều chủ trương "vời đón hiền giả, thu dụng nhân tài", do đấy nghĩa quân Lam Sơn ngày càng có thêm nhiều tướng lĩnh xuất sắc. Về rèn luyện quân đội, Nguyễn Trãi đề ra những nội dung nuôi dạy quân sĩ rõ ràng: "Vỗ nuôi sĩ tốt,... luyện tập binh tượng, dạy bảo những phương pháp ngồi, dậy, tiến, lui","vừa đánh giặc vừa cày ruộng"
Về tổ chức quân đội, Nguyễn Trãi chủ trương có nhiều loại quân. Trong 5 năm đầu chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa, phong trào Lam Sơn chỉ có quân khởi nghĩa, tức quân chủ lực, là chính. Nhưng từ khi nghĩa quân rời khỏi căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn tiến vào Vân Nam rồi quay ra Bắc đánh đâu được đấy, vùng giải phóng ngày càng mở rộng, thu đất, giành dân ngày càng nhiều thì vấn đề tổ chức chính quyền và tổ chức quân đội ở các địa phương cũng cần đẩy mạnh. Song song với việc tổ chức chính quyền ở các lộ thì về quân sự, ngoài quân chủ lực, các lãnh tụ Lam Sơn tổ chức những đạo quân của các lộ, tức quân địa phương. Theo sử sách và những ghi chép của Nguyễn Trãi để lại, khoảng giữa năm 1427, quân đội Lam Sơn có 35 vạn người, trong đó quân địa phương chiếm một tỷ số cao hơn quân chủ lực. Nguyễn Trãi đã có lần nói: "... nay lấy các lộ Nghệ An, Diễn Châu, Thanh Hóa, Tân Bình, Thuận Hóa, Đông Đô, chọn quân tinh nhuệ không dưới vài mươi vạn". Như vậy quân địa phương lúc này có thể là 20 vạn người, mà quân chủ lực là 15 vạn. Ngoài quân chủ lực và quân địa phương, thời kỳ này còn có dân binh, do nhân dân các thôn xã tổ chức. Dân binh không phải là quân đội thường trực, lúc nào cũng có và ở đâu cũng có. Tại những nơi có chiến sự, nhân dân các thôn xã thường tự động tổ chức dân binh để góp sức với quân chủ lực và quân địa phương cùng đánh giặc hoặc vây thành.
Về vũ khí, trang bị và lương thực, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ Lam Sơn chủ trương một phần tự cung, tự cấp, như "sửa rèn khí giới", "vừa đánh giặc vừa cày ruộng", một phần "lấy của giặc làm của mình", như "lương thực, khí giới, lấy của giặc làm của mình" (Chí Linh sơn phú), "Phàm cung tên, giáo mộc của giặc đều là chiến khí của ta, vàng bạc, châu báu của giặc đều là quân tư của ta" (Lam Sơn thực lục). Do đấy mà trong quá trình chiến đấu, lương thực, vũ khí, cùng mọi thứ quân trang, quân dụng đều ngày càng nhiều.
Trên đây là mấy nét về đường lối tổ chức lực lượng vũ trang của Nguyễn Trãi để bảo đảm có quân mạnh, tướng tài, lập thành một quân đội dân tộc hùng cường đủ sức đánh thắng giặc
Quân đội ấy đã được xây dựng trên cơ sở của đội quân khởi nghĩa nhỏ bé ban đầu và đã trưởng thành trong khói lửa đấu tranh. Nó đặc biệt phát triển nhanh chóng trong những ngày hòa hoãn với địch. Nó là một lực lượng cơ bản quyết định thắng lợi trong giai đoạn chiến tranh sau này. Từ khi củng cố lại lực lượng ở căn cứ Chí Linh - Lam Sơn tới sau mấy năm chiến đấu lên tiếp với địch, quân đội Lam Sơn đã trưởng thành vượt bậc, thế càng lớn, lực càng mạnh. Trong tình hình như thế, đã có lúc Nguyễn Trãi bảo thẳng với chủ tướng địch:
"Trước thì quân bất quá vài trăm người, mà nay thì binh phụ tử ở Thanh Hóa gồm hai vạn người, quân có tiếng là tinh tráng, dũng cảm ở Diễn Châu, Tân Bình, Thuận Hoá cũng đến vài vạn người, quân đồng tâm đồng lực ở các lộ Giao Châu không dưới mười vạn, còn các chiến sĩ khác cũng chẳng dưới ba chục vạn người; trước thì thầy bạn thân thích phân tán các nơi, mà nay thì những kẻ sĩ trí mưu tài thức theo về đồng đúc, không khác gì cây rừng xúm xít răng lược khít nhau; trước thì khí giới tay không mà nay thì thuyền chiến ngất mây, áo giáp rực sáng, tên đạn chất đống, thuốc súng đầy kho. So trước với giờ, mạnh hay yếu đã biết rõ được".
Đó chính là kết quả của đường lối phát động nhân dân cả nước đánh giặc "giơ gậy làm cờ, bốn phương dân cày tập hợp, rượu hòa nước lã, một lòng tướng sĩ cha con", mà Nguyễn Trãi đã đề ra với nghĩa quân Lam Sơn từ sau khi về núi Chí Linh lần thứ ba.
NHẰM THỜI CƠ RA QUÂN ĐÁNH ĐỊCH
Việc hòa hoãn với địch chỉ là tạm thời, không thể kéo dài. Mọi hoạt động trong căn cứ địa, dù tiến hành khẩn trương, kín đáo, cũng không thể không có tiếng vang ra ngoài. Những hoạt động quyên tiền mộ lính, những cảnh tượng nông dân và những người yêu nước bốn phương tấp nập kéo tới Lam Sơn và không khí sôi nổi luyện tập quân sĩ, chuẩn bị lương thực, chế tạo vũ khí trong căn cứ địa, không thể không tới tai mắt quân địch. Vốn từ sau khi hai bên nghị hòa, bọn tướng lĩnh cao cấp của địch là Trần Trí, Mã Kỳ, Sơn Thọ vẫn thường cho người đem trâu ngựa, cá muối, lúa giống, nông cụ đến biếu nghĩa quân để cố dụ hàng. Lê Lợi và Nguyễn Trãi cũng thường cho các tướng Trần Vận, Lê Trăn đem vàng bạc biếu lại. Nhưng hòa hoãn chưa được bao lâu, các lãnh tụ nghĩa quân biết địch ngờ vực. Để yên lòng địch, Lê Lợi lại cho Trần Vận, Lê Trăn đem quà sang biếu bọn tướng địch. Muốn uy hiếp tinh thần nghĩa quân, bọn Trần Trí, Mã Kỳ đã giam giữ sứ giả của nghĩa quân không cho trở về. Thấy địch bắt giữ người của mình, nghĩa quân cương quyết cắt đứt quan hệ với địch, và tiếp tục đẩy mạnh việc phát triển lực lượng, luyện tập tướng sĩ, đồng thời gấp rút chuẩn bị lương thực, khí giới để kịp thời đối phó với những bất trắc có thể xảy tới.
Địch thấy không thể để yên cho nghĩa quân ung dung chuẩn bị lực lượng đánh lại chúng, nên chúng tổ chức một đạo quân do Phương Chính cầm đầu, tiến tới căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn nhằm đàn áp nghĩa quân. Có thể là Phương Chính đã ra quân khoảng mùa xuân năm 1424.
Tới Chí Linh lần này, cũng như tất cả các lần trước, quân địch không dám đánh thẳng vào núi Chí Linh, có lẽ vì địa thế núi Chí Linh hiểm trở, nên chỉ đóng án ngữ ở phía ngoài căn cứ địa của nghĩa quân. Nhưng khác với các lần trước, lần này nghĩa quân không chịu bó tay trong căn cứ địa, mà sẵn sàng đánh lại địch. Chưa nhằm mục đích đánh lui hẳn địch, nhưng nghĩa quân vẫn luôn luôn tiến ra tập kích địch, đánh lấy lương thực, khí giới của địch, như Nguyễn Trãi đã nói trong Chí Linh sơn phú:
Từ đấy, rèn quân kén tướng, ra kỳ để đánh thắng...
Lương thực, khí giới, lấy của giặc làm của mình
Kế vạn toàn nắm vững một mũi tên không để phí...
Tuy nhiên địch vẫn không dám tiến vào căn cứ địa. Để thăm dò thái độ và ý đồ của địch, Nguyễn Trãi đã viết cho Phương Chính một bức thư, lời lẽ rất ngọt ngào:
"Tôi trộm nghĩ cái nỏ nặng nghìn cân không vì con chuột nhắt mà nảy máy. Nay ngài là bậc danh tướng hiện thời, lại đem quân hai nước để tranh thắng với kẻ thất phu, có được chăng nữa, chẳng qua chỉ phong hầu mà thôi, nếu vạn nhất mà thua ngã, thì bốn phương nhân thế mà chinh chiến không thôi. Dẫu người có trí mà không khéo lo tính về sau, hối làm sao kịp? Chỉ e mua cười với dương thế, để trách cho đời sau, tôi rất lấy làm lo ngại cho ngài. Tưởng kế của ngài ngày nay không gì bằng cởi giáp nghỉ binh ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thượng sách. Thế tuy là may cho bọn tôi cùng ngài mà cũng là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy".
Địch không trả lời, không lui quân mà cũng không tiến hơn. Nguyễn Trãi thấy rõ địch sợ địa thế không dám tiến, và có thể địch sẽ vây hãm lâu dài. Biết địch không lui quân, ông viết thư thách thức, nhử địch vào sâu để đánh. Ông bảo Phương Chính:
"Khư khư cầm đại binh nấn ná không tiến, để cho quân lính nhiễm lam chướng, dịch lệ mà chết. Đó là tội ai?... Mày muốn đánh thì nên tiến quân giao chiến...".
Địch vẫn không dám liều mạng. Ông lại dọa:
"Nếu mày không lui, ta sẽ đem quân quyết chiến".
Những bức thư thách thức của Nguyễn Trãi nhằm hai mục đích: nếu địch bị nhử tiến vào sâu, nghĩa quân sẽ đánh tiêu diệt dễ dàng, nếu địch không bị nhử, không đánh vào, nghĩa quân sẽ yên tâm trù tính kế hoạch tác chiến của mình.
Đoán biết ý định của ta, Phương Chính chịu mắng nhiếc, vẫn cùng đại quân "án binh bất động", làm nhiệm vụ ngăn giữ không để nghĩa quân trong căn cứ địa liên lạc được với ngoài và chặn đánh nếu nghĩa quân tiến ra đánh lên Tây Đô hay miền Tây Bắc Thanh Hóa như những lần trước.
Địch không dám vào, nghĩa quân cũng không đánh mạnh ra để đẩy lùi hẳn địch. Tình trạng nhùng nhằng như thế tất nhiên không thể kéo dài. Nghĩa quân xây dựng căn cứ địa, phát triển lực lượng, không phải để thủ hiểm lâu dài, mà là để nhanh chóng tiếp tục đánh địch. Vậy lúc này đã là lúc hoạt động chưa, đã là thời cơ để nghĩa quân ra khỏi căn cứ, tiến đánh quân thù chưa? Đây là những điều nghĩa quân phải cân nhắc, sức mình như thế nào, thời cơ đã đến chưa?
Về khả năng chủ quan của nghĩa quân Lam Sơn, sau gần hai năm ở căn cứ địa các mặt tổ chức, huấn luyện và trang bị đều tốt hơn trước rất nhiều. Nghĩa quân đã có một sức mạnh nhất định. Nhưng cái mạnh của nghĩa quân vẫn không phải ở số lượng, ở khả năng vật chất. Theo Nguyễn Trãi, khi ở căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn, số lượng nghĩa quân chỉ khoảng vài nghìn, hoặc theo Nguyễn Mộng Tuân "số quân không đầy nửa vạn". Với dăm ba nghìn quân như vậy không phải là đông. Nhưng vấn đề số lượng không quan trọng. Nguyễn Trãi đã chủ trương đúng: "Binh mạnh hay yếu, không cứ ở nhiều". Cái mạnh của nghĩa quân Lam Sơn là mạnh về tinh thần. Sau gần 2 năm ở căn cứ địa, cái mạnh cơ bản ấy của nghĩa quân càng tăng cường, Nguyễn Trãi thấy rất rõ và đã nhấn mạnh khi ông nhận định: "Sinh nhục tử vinh, tri ngã quân chi khả dụng" (Chết vinh hơn sống nhục, biết rõ quân ta dùng được – Chí Linh sơn phú). Với sức mạnh đó, nghĩa quân có thể lại tiếp tục lên đường đánh địch.
Nhưng thời cơ đã đến chưa?
Nguyễn Trãi là người rất coi trọng vấn đề thời cơ. Ông thường nói: "Thời cơ, thời cơ, chớ nên để lỡ". Có thời cơ thì phải nắm ngay lấy, phải hành động kịp thời. Nếu chưa có thời cơ, hoặc chưa đúng thời cơ, thì cần dè dặt, không nóng vội, không manh động. Thời cơ do mình tạo nên, nhưng một phần cũng do tình hình địch thúc đẩy tới. Tướng địch đem quân tới Chí Linh - Lam Sơn mà không dám đánh, chưa phải vì địch ở cái thế yếu hơn ta. Địch đóng quân ở phía ngoài Chí Linh - Lam Sơn, luôn luôn bị nghĩa quân đánh tập kích, bị Nguyễn Trãi viết thư thách thức, mắng nhiếc mà địch vẫn không dám xông xáo, sục sạo đánh vào căn cứ địa, địch biết núi rừng Chí Linh hiểm trở mà quân ta trong thời gian hòa hoãn nhất định mạnh hơn trước, nên địch không khinh suất, không đánh liều. Không đánh liều như thế, không có nghĩa là địch đã yếu. Nếu địch yếu, địch sợ, địch đã không đem quân tới vùng căn cứ để sẵn sàng giáp chiến với ta. Tuy nhiên tình hình trên cũng cho thấy lần này địch có phần dè dặt, thận trọng hơn trong việc đọ sức với quân ta. Nghĩa quân thấy rõ tình hình đó và cũng hành động thận trọng, chỉ thỉnh thoảng đánh tập kích, quấy rối những nơi đóng quân của địch mà không tiến hành quyết chiến. Địch sinh chủ quan, yên trí nghĩa quân không đủ sức đương đầu với chúng, chịu cố thủ trong căn cứ cho tới khi cùng quẫn, đầu hàng. Nhưng, thực tế, nghĩa quân đương chờ thời cơ thuận lợi nhất để ra quân đánh địch. Thời cơ đó là thời cơ địch bị hoàn toàn bất ngờ, không chỉ bọn Phương Chính bất ngờ, mà địch ở khắp nơi đều bất ngờ; bất ngờ về chiến lược, bất ngờ về phương hướng tác chiến, bất ngờ về thời gian, ta ra quân là đánh thắng, mở đầu cho một giai đoạn chiến đấu mới, giai đoạn chiến thắng liên tiếp, đánh đâu thắng đấy.
Thời cơ đó đã tới trong những tháng cuối năm 1424. Địch phải hòa hoãn với nghĩa quân trước đây là thế bất đắc dĩ. Hòa hoãn, nhưng nghĩa quân Lam Sơn vẫn chuẩn bị đánh chúng. Biết như thế, chúng phải cho Phương Chính đem quân tới Chí Linh - Lam Sơn hòng vây hãm và ngăn chặn mọi hoạt động của nghĩa quân. Nhưng đã có thể tiếp tục chiến tranh đàn áp được chưa, tự lượng sức mình, chúng chưa dám quyết. Trong khi đó, tại nước chúng, chiến tranh với người Thát Đát ở phía bắc vẫn tiếp diễn. Mùa thu năm 1424, vua Minh là Thành Tổ đem quân từ biên giới phía bắc trở về, ốm chết ở dọc đường ngày 18 tháng 7 âm lịch, đưa xác về tới Yên Kinh mới phát tang. Tin đó đưa sang Việt Nam, quân địch ở đây càng hoang mang. Tổng binh địch Trần Trí phải tâu về triều, nói rõ: "Lợi tuy cầu hòa, nguyện đem bộ hạ về theo, nhưng đóng ở Nga Lạc không ra, chế tạo khí giới không thôi, tất là sẽ tiến binh" và xin chỉ thị cần đối phó như thế nào, vì chắc chắn nghĩa quân sẽ tiến đánh chúng. Ngày 15 tháng 8 âm lịch, Minh Nhân Tôn lên ngôi vua thay Minh Thành Tổ. Trước tình thế chiến tranh ở phía bắc và những khó khăn nghiêm trọng ở trong nước do chiến tranh gây ra, Nhân Tôn chủ trương vẫn tiếp tục chính sách hòa hoãn ở Việt Nam như Minh Thành Tổ đã làm trước đây. Nhân Tôn hạ lệnh: "Những việc ở Giao Chỉ như khai lấy vàng bạc và tìm kiếm hương liệu các loại, đều đình chỉ hết. Các quan viên trong ngoài sai đi trông coi, hạn trong 10 ngày phải khởi trình về Kinh, không được kiếm cớ ở chậm lại mà ngược hại nhân dân".
Khi tờ tâu của Trần Trí về tới Yên Kinh, thì Minh Nhân Tôn không cho lệnh đánh, mà lại ra sắc chỉ cho bọn Trần Trí phải "khéo vỗ về chiêu dụ". Nhận được sắc chỉ ấy, bọn tướng địch ở Việt Nam càng hoang mang, phân tâm. Như lời tâu về triều đã nói rõ, chúng tin chắc nghĩa quân sẽ tiến đánh chúng, chúng không thể không đánh lại, mà đánh thì trái với sắc chỉ của triều đình và đánh chưa chắc đã thắng. Trong hàng ngũ tướng địch, sự không nhất trí về chủ trương bắt đầu nảy nở: kẻ muốn đánh, kẻ muốn có hòa hoãn dụ hàng. Nhưng mạc dầu đương lúc hoang mang, phân tâm như vậy, một việc trước mắt chúng phải làm ngay là cử một số quan lại, tướng lĩnh về triều dự tang vua cũ, chúc mừng vua mới, đồng thời phải tổ chức tại chỗ lễ tế vua cũ và lễ mừng vua mới để tất cả các quan lại, tướng lĩnh ở Việt Nam có thể tham dự. Sử cũ của ta ghi: "Các nha môn lớn nhỏ nước ta đều sai quân đem lễ vật đến tế và mừng", tức là các quan lại địch, tướng lĩnh địch, các quan ngụy, tướng ngụy đứng đầu các nha môn lớn nhỏ ở khắp nước đều phải cho quân đem lễ vật và tự mình đến dự tế và lễ mừng. Địch đương hoang mang, phân tâm và bận rộn khắp nơi về những công việc như thế chính là thời cơ thuận lợi nhất để nghĩa quân tiến ra đánh địch. Và nghĩa quân đã nắm lấy thời cơ đó để hành động.
ĐỊNH PHƯƠNG CHÂM CHIẾN LƯỢC CHIẾN THUẬT. ĐẨY MẠNH CHIẾN TRANH ĐẾN TOÀN THẮNG
Thời cơ đánh địch đã đến, nhưng đánh như thế nào và đánh vào đâu để chắc thắng, để không rơi vào tình trạng như 5 năm trước, khi được khi thua, khi đánh khi chạy, mấy lần quân tàn lương hết, 5 năm đấu tranh liên tục mà vẫn bó hẹp hoạt động trong vùng núi rừng Tây Bắc Thanh Hóa, không xây dựng được hậu phương, không thiết lập được chính quyền của mình để thay dần chính quyền của địch. Đó cũng là những vấn đề rất quan trọng cần được xác định rõ trước khi nghĩa quân từ căn cứ địa Chí Linh - Lam Sơn tiến ra tiếp tục quyết chiến với địch cho đến thắng lợi cuối cùng.
Trong 5 năm chiến đấu đã qua, nghĩa quân Lam Sơn có một ưu điểm lớn là đã vận dụng tài giỏi những phương châm chiến lược, chiến thuật của chiến tranh du kích để đánh thắng địch đông hơn mình nhiều lần. Những phương châm chiến lược, chiến thuật ấy sau này thường được Nguyễn Trãi nhắc đến mỗi khi ông viết những bài văn có tính chất tổng kết cuộc chiến tranh giải phóng của nghĩa quân Lam Sơn như Bình Ngô đại cáo, Phú núi Chí Linh, Lam Sơn thực lục, Bia Vĩnh Lăng. Trong bài văn Bia Vĩnh Lăng, kể lại sự nghiệp đánh giặc cứu nước của Lê Lợi, cũng tức là kể lại quá trình chiến đấu 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi đã tóm tắt tài nghệ quân sự của nghĩa quân Lam Sơn trong giai đoạn đầu của cuộc khởi nghĩa như sau:
"Năm Mậu Tuất (1418) dấy quân khởi nghĩa, đóng tại Lạc Thủy, trước sau hơn mấy chục trận, đều đặt phục, ra kỳ, tránh giặc hăng, đánh giặc mệt, lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh"
Đặt phục, ra kỳ, tránh giặc hăng, đánh giặc mệt, lây ít đánh nhiều, lây yếu thắng mạnh, đó là những phương châm chỉ đạo có giá trị về chiến thuật và chiến lược. Và đặt phục, ra kỳ còn là một chiến thuật chính được vận dụng thường xuyên trong cả quá trình chiến tranh. Đặt phục là đặt mai phục, đánh phục kích. Ra kỳ là vận dụng linh hoạt phương pháp "kỳ chính" để đánh thắng giặc, tức vận dụng linh hoạt chiến lược, chiến thuật để đánh địch, khiến địch hoàn toàn bất ngờ về cả các mặt thời gian, phương hướng và phương pháp đánh. Trong 5 năm chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa, nghĩa quân Lam Sơn đã đánh địch nhiều trận, và nhiều trận thắng lớn. Căn cứ vào diễn biến của phong trào và kết quả của các trận đánh, có thể khẳng định: những phương châm tác chiến "đặt phục, ra kỳ, tránh giặc hăng, đánh giặc mệt" cùng tinh thần chịu đựng gian khổ, anh dũng hy sinh, ngoan cường chiến đấu, đã tạo cho nghĩa quân một sức mạnh vượt bậc để lập nên những chiến công rực rỡ trong 5 năm chiến đấu ở miền tây Thanh Hóa, khắc phục được nhiều khó khăn để đánh thắng địch đông hơn mình nhiều lần.
Ra kỳ tức "xuất kỳ" là một thuật ngữ của binh pháp xưa. Giỏi ra kỳ tức "thiện xuất kỳ", là giỏi vận dụng phương pháp kỳ chính để đánh thắng giặc. Khi nói về những cách đánh của nghĩa quân Lam Sơn, Nguyễn Trãi thường dùng chữ xuất kỳ, là với ý đó, như: "dĩ quả địch chúng thường thiết phục dĩ xuất kỳ" (lấy ít đánh nhiều thường đặt phục để ra kỳ) trong Bình Ngô đại cáo, hoặc "Ư thị luyện binh tuyển tướng, chế thắnq xuất kỳ" (thế rồi rèn quân kén tướng, ra kỳ để đánh thắng) trong Phú núi Chí Linh, hoặc Tiền hậu phàm sổ thập dư chiến, dai thiết phục xuất kỳ... (trước sau hơn mấy chục trận, đều đặt phục ra kỳ) trong Bia Vĩnh Lăng
Nhưng để tiếp tục chiến tranh với địch, chỉ với những phương châm đánh địch như thế, chưa thể áp đảo địch và đánh bại hẳn địch, mà phải có những phương châm tác chiến khác nữa, kết hợp các lối đánh, tạo thành một sức mạnh to lớn để đánh thắng địch. Cho nên khác với 5 năm chiến đấu trước, lần này ra quân, nghĩa quân phải thực hiện được quyết tâm:
"Đi đến đâu đánh tan đến đấy, như phá vật nát, như bẻ cành khô"
theo tinh thần:
"Việc binh cốt phải mau chóng như thần, máy then đóng mở như bánh xe chuyển, như đám mây bay, trong khoảng chốc lát, chợt nóng, chợt rét, thay đổi khôn lường".
Đó là tư tưởng chủ đạo của toàn bộ quá trình đánh địch sau này. Tư tưởng đó là tư tưởng tiến công chủ động, mãnh liệt, liên tục, thần tốc và linh hoạt, sẽ quyết định mọi cách đánh, "càng đánh càng được", mau chóng tiến tới thắng lợi hoàn toàn trong giai đoạn chiến đấu sắp tới.
Ra quân lần này, để giành quyền chủ động trên chiến trường và giữ vững thế tiến công địch" dồn dập và mãnh liệt, bảo đảm đánh thắng theo phương châm "lấy ít đánh nhiều, lấy yếu thắng mạnh", ngoài sự tiếp tục vận dụng những cách đánh địch đã có từ trước như: đặt phục, ra kỳ, tiến công khi địch không phòng bị, đón đánh khi địch đương tiến quân, hoặc nhử địch vào sâu nơi hiểm để tiêu diệt, Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn lại vận dụng sáng tạo linh hoạt nhiều phương châm chiến lược, chiến thuật chưa từng thấy trong giai đoạn 5 năm chiến đấu trước.
Lần này, Nguyễn Trãi, Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn chủ trương sẽ "tìm nhiều phương lừa đánh địch" (Chí Linh sơn phú), đánh địch bằng mọi cách, đánh địch trên mọi mặt và mọi người đều đánh địch, quân và dân cùng đánh địch, động viên mọi lực lượng, sử dụng mọi phương tiện, tranh thủ mọi thời cơ, mọi địa hình thuận lợi nhất để đánh địch.
Để mở đường cho một bước phát triển mới của chiến tranh, một giai đoạn đánh địch quyết liệt, đánh chắc thắng, "càng đánh càng được", ngay từ khi rời căn cứ Chí Linh - Lam Sơn, ra quân đánh địch, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ Lam Sơn bắt đầu thực hiện một phương châm tác chiến chủ đạo là: "tránh mạnh đánh yếu” (Bia Vĩnh Lăng), "bỏ chỗ vững đánh chỗ núng, tránh chỗ thực đánh chồ hư" (Lam Sơn thực lục), mà Nguyễn Trãi đã nhiều lần nêu rõ. Nghĩa quân Lam Sơn triệt để vận dụng phương châm cơ bản ấy trong mọi lần ra quân sau này. Đánh chiếm các châu huyện trước, vây hãm các thành sau, đánh những nơi xa Đông Quan, xa đại bản doanh của địch trước, đánh thành Đông Quan sau, v.v... đều là sự thể hiện của phương châm "tránh mạnh đánh yếu, bỏ chỗ vững đánh chỗ núng". Đánh theo phương châm đó thì đánh trận nào cũng thắng, đánh đâu thắng đấy, tạo nên thế tiến công dồn dập và làm cho địch phải tiêu hao, tiêu diệt ngày càng nặng.
Để có một thế tiến công thật mãnh liệt, chủ động, nghĩa quân Lam Sơn sẽ thực hiện tiến công tổng hợp, đánh bằng quân sự, đánh bằng sức mạnh của dân chúng nổi dậy, đánh vào lòng địch, đánh cho địch không kịp trở tay, không sao đương nổi.
Để đẩy mạnh khả năng "lấy yếu thắng mạnh" về chiến lược Nguyễn Trãi còn chủ trương "lấy mạnh đánh yếu" về chiến thuật. Ông nói "lấy mạnh đánh yếu lo gì không thắng”, "Dĩ cường công nhược, hà ưu bất khắc" Nguyễn Trãi tin tưởng ở một thực tế đanh thép là: "Đem núi Thái Sơn đè lên quả trứng, lực không chịu nổi chốc lát, lấy lửa hồng thiêu đốt sợi lông, thế khó đương trong khoảnh khắc", "Phàm lấy sức nặng ngàn cân đè lên trứng chim thì chưa hề có trứng nào không vỡ nát".
Cái thế mạnh như núi Thái Sơn đè lên quả trứng chính là ưu thế trên chiến trường. Muốn đánh mạnh như "sấm ran chớp giật" như "trúc chẻ tro bay" (Chí Linh sơn phú), thì phải giành được ưu thế trên chiến trường. Muốn giành ưu thế trên chiến trường, cần có sự vận dụng kết hợp khéo léo nhiều cách đánh và đôi khi cũng cần tập trung binh lực trong một chừng mực nhất định, để tạo nên cái thế "dĩ cường công nhược" (lấy mạnh đánh yếu). "Lấy ít đánh nhiều" và "lấy mạnh đánh yếu" là sự vận dụng rất linh hoạt các phương châm chiến thuật để thực hiện thắng lợi phương châm chiến lược "lấy yếu thắng mạnh" mà nghĩa quân Lam Sơn đã đề ra từ những ngày đầu chiến tranh.
Trong quá trình chiến đấu, những phương châm chiến lược, chiến thuật nói trên, được vận dụng phối hợp chặt chẽ với nhau; hỗ trợ cho nhau, tạo nên cho nghĩa quân Lam Sơn một thế đánh rất mạnh trên chiến trường, đánh như "chẻ tre", đánh đâu thắng đấy, vừa đánh địch, vừa nhanh chóng thu đất, giành dân, xây dựng chính quyền độc lập, đẩy dần địch vào cái thế không còn khả năng tiếp tục chiến tranh xâm lược và không thể chiếm đóng lâu dài đất nước ta.
(Nguồn: Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước)